======= PAGE 1 ======= BỘ SÁCH ĐỘC QUYỂN ÔN THỊ TỐT NGHIỆP THPT CHƯƠNG TRÌNH MỚI "ĐI KIỂM MÌNH NƠI THỂ GIAN RÔNG LỚN" lập 1 Ngoài kia: bao nhiêu? ======= PAGE 2 ======= 7 ời ngiẻ é Xin thương mến chào bạn, cảm ơn bạn đã cân nhắc bộ sách “Đi kiếm mình nơi thế gian rộng lồn" của Học Văn Cô Sương Mai trên hành trình phía trước của mình. Xuất phát điểm từ một ý tưởng có phần ôm đồm, lớn lao, khó giải quyết: . Tích hợp các kĩ năng, kiến thức, dạng bài Ngữ Văn lớp 12 trong cả 3 bộ sách hiện hành của Bộ Giáo dục Đào tạo (bộ sách Cánh diều, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, bộ sách Chân trời sáng tạo) để đưa về một bộ sách chung, một lộ trình chung hướng tới kì thi lón. « Không chỉ là sách dành cho học sinh trong khóa học Luyện thi Đại học Toàn diện theo chương trình mới của Học Văn Cô Sương Mai mà còn dành cho các bạn học sinh muốn tự học, tự nghiên cứu và ôn thi. . Đưa văn học đến với học sinh một cách gần gũi, bình dị, tự nhiên nhưng không kém phần sâu sắc. . Dạy Văn và học Văn với nỗ lực phát triển tư duy - năng lực cảm thụ của học sinh, để các em được hoàn thiện hón mỗi ngày trên chặng dường ý nghĩa của tuối 18. Và mong muốn càng cao thì sự nỗ lực càng cân tương xứng! Sương Mai và các cộng sự dây trẻ trung, nhiệt huyết đã cùng nghiên cứu kĩ càng từng bộ sách, từng đề minh họa của các tỉnh thành, các trường học theo cấu trúc mới của khối 10, 11 trong 2 năm qua — để từ đó tìm được những điểm tướng đông - khác biệt và có giải pháp “dung hòa” tất cá một cách trọn vẹn, đủ đầy mà vẫn thật hấp dẫn. Đề cuốn sách không chỉ là tài liệu học tập đơn thuân với mục tiêu cụ thể về điểm số, Sương Mai mong muốn hướng tới một “đích đến" chưng rộng lón hơn và sâu sắc hơn cho hành trình này. Đó là lý do cái tên “Đi kiếm mình nơi thế gian rộng lón” ra đời. Bởi lẽ, mình luôn tin rằng, văn học sẽ giúp ta khám phá thế giới mênh mông ngoài kia; đồng thời tạo không gian, có hội để ta được đào sâu vào chính bản ngã của mình, gặp gõ và đối thoại với một “tôi” còn nép mình đâu đó trong sâu thẳm tâm hồn. Cuộc đòi ta sẽ có rất nhiều cuộc hành trình, và chặng đường “tôi đi tìm tôi” vẫn là một trong những chuyến phiêu lưu đáng nhó nhất. Vậy tại sao ta không biến những trải nghiệm học Văn thành một chất liệu, một co hội quan trọng để ta hiểu rõ về mình hơn nữa? Với hai tập sách tương ứng với hai chủ đê lớn, đội ngũ Học Văn Cô Sương Mai tín rằng đây là hai trong rất nhiều câu hỏi quan trọng ta cần đặt ra cho chính bản thân mình để bất đầu tìm kiếm những đáp án của riêng mình, hướng tới một cuộc đời phong phú, ý nghĩa nhất: . Tập O1: Ngoài kia rực rõ bao nhiêu? . Tập 02: Bên trong ta rộn rã đến thế nào? Mỗi tập sách sẽ gồm 6 chủ đề, Mỗi chủ đề được lựa chọn trong từng tập đều phần nào đó hướng tới hai câu hỏi lớn dược đặt ra, để mong rằng ð cuối hành trình phiêu lưu cùng những trang sách này, bạn sẽ tìm thấy một phần của “mình” giữa thế gian bao la, bạn sẽ ======= PAGE 3 ======= không còn hoang mang bước đi trong vô định, vì bạn đã hiểu rõ hơn về chính bản thể của mình. Và bạn yên tâm, tính thực tiễn của bộ sách vẫn hoàn toàn dược đảm bảo với mục đích ôn thi THPT QG 2025. Ö từng chủ đề đều lông ghép những kĩ năng, kiến thức, dạng bài cần thiết giúp học sinh được học tập và rèn luyện liên tục; đi theo bố cục ö phần theo chuẩn cấu trúc chương trình mới của Bộ Giáo Dục: - Kiến thức ngữ văn: Học sinh được học về các tri thức, khái niệm liên quan đến văn học và ngôn ngữ; từ đó nâng cao hiểu biết và tạo cơ sỏ để đọc, viết, nói và nghe. ~ Đọc hiểu: Học sinh đọc các văn bản nhất định đề rèn luyện kiến thức ngữ văn đã được học, cũng như nâng cao kĩ năng đọc, cảm thụ văn bản văn học. Đội ngũ biên soạn đã lựa chọn nhữmg ngữliệu phù hợp, phong phú để học sinh tiếp cận và khám phá, qua đó thấm thía sâu sắc hơn trí thức Văn học và mỏ rộng vốn đọc của bản thân. - Tiếng Việt: Học sinh được học về các đơn vị ngôn ngữ cân thiết để phát triển nghe, nói, dọc, viết. - Viết: Học sinh được rèn luyện cách viết các dạng văn bản nhất định — xử lý các dạng đề có khả năng xuất hiện trong đề thì chính thức. - Luyện tập: Học sinh củng cố lại đơn vị kiến thức đã học qua bài thực hành đọc và viết. Bên cạnh đó, các phần nâng cao khả năng cảm thụ của người học với những chất liệu đa dạng của nghệ thuật như hội họa, điện ảnh, âm nhạc, .. cũng sẽ được đan cài trong từng chủ đề một cách hợp lý để trải nghiệm học Văn thú vị hơn nữa. Với mỗi chủ đề, Sương Mai cũng sẽ đũnh kèm một video mình chia sẻ về nội dung học của chủ đề đó, dành cho những người yêu Văn hoặc các bạn học sinh muốn tự học từ sách có thể có thêm những lòi gợi ý định hướng, giúp quá trình học sẽ hiệu quả nhất. Với các bạn học trò trong lớp Luyện thi Toàn diện của Học Văn Cô Sương Mai, bạn hãy kiên nhẫn và chăm chỉ kết hợp học từ sách với các buổi học trong khóa để có một trải nghiệm trọn vẹn nhất nhal Mong rằng chặng đường của bạn với bộ sách sẽ thật sự ý nghĩa. Nếu có góp ý cho bộ sách, bạn vui lòng gửi mail về địa chỉ: hocvancosuongmai.book@gmall.com Sương Mai và đội ngũ sẵn sàng đón nhận mọi lời đóng góp để rút kinh nghiệm và hoàn thiện hơn nữa ó những cuốn sách được tái bản hoặc những bộ sách sau này. Trân quý và biết ơn bạn thật nhiều vì đã lựa chọn “Đi kiếm mình nơi thế gian rộng lớn”. Thay mặt đội ngũ biên soạn sách, Chủ biên, Sương Mai. ======= PAGE 4 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? MỤC LỤC BÀI NỘI DUNG TRANG 1 | VĂN HỌC VÀ CUỘC SỐNG KIẾN THỨC NGỮ VĂN - D z TIẾNG vi 5 Viết bài phát biểu trong lễ phát động phong trào œ Gœ < mà =Ì hoặc một sự kiện xã hội LUYỆN TẬP. | Min cỏ hoang - Trần Thanh Hà 37 2 | LẮNG NGHE KHÚC HÙNG CA LỊCH SỬ 46 KIẾN THỨC NGỮ VĂN - 5 5 TIẾNG việ 5 : KIẾN THỨC NGỮ VĂN Xứ tuyết (Trích) - Kawabata Yasunari ĐỌC P Mất sói (Trích) - Daniel Pennac 100 TIẾNG VIỆT | Ngôn ngữ trang trọng và ngôn ngữ thân mật 105 Viết bài văn so sánh, đánh giá hai tác phẩm văn 1 < mà " 109 xuôi LUYỆN TẬP | Tro tàn rực rỡ - Nguyễn Ngọc Tư 114 THEO NHỮNG DẤU CHÂN NGƯỜI (THƠ VĂN HỒ CHÍ MINH) KIẾN THỨC NGỮ VĂN Tuuên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh ĐỌC HH TGỒH HỌC LẬP Đổi nguyệt - Hồ Chí Minh 122 122 126 130 ======= PAGE 5 ======= „ Nhận điện và khắc phục lỗi logic, lỗi mơ hồ TIẾNG VIỆT " trong diễn đạt * Viết thư trao đổi công việc hoặc những vấn đề xã VIẾT 135 hội LUYỆN TẬP | Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên |_ 5 | TỪ TIẾNG CƯỜI HÀI KỊCH ĐẾN “SÂN KHẤU” CUỘC ĐỜI 148 KIẾN THỨC NGỮ VĂN Nhân uật quan trọng (Trích “Quan thanh tra”) - ĐỌC Nikolay cogoi Arpagông - Elụ - Clêan (Trích “Lão hà tiện”) - Mô- li-e (Molière) TIẾNG VIỆT | Biện pháp tu từ nói mia, nghịch ngữ VIẾT Hà “ văn nghị luận về một tác phẩm nghệ 168 HUYỆN TẬP | 6 | SỰTHẬT TRÊN TRANG KÍ 191 KIẾN THỨC NGỮ VĂN Mãi mãi tuổi hai mươi (Trích) - Nguyễn Văn Thạc ĐỌC Tôi kéo xe (Trích) - Tam Lang TIẾNG VIỆT | Luyện tập giải thích nghĩa của từ Viết bài so sánh, đánh giá hai tác phẩm văn xuôi VIẾT , (truyện ngắn, kí, kịch,...) LUYỆN TẬP. | Một lít nước mắt (Trích) - Kito Aya GỢI Ý TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI ======= PAGE 6 ======= R) 3» - 1 Chủ đẻ | b \W;1861e1e và cuộc sống ======= PAGE 7 ======= YÊU CẦU CẦN ĐẠT e - Học sinh hiểu được khái niệm về văn học; phân tích và đánh giá được chức năng thẩm rmrữ, nhận thức, giáo dục, giao tiếp và giải trí của văn học. « - Có nhận thức đúng đắn về việc giữ gìn và phát triển vẻ đẹp trong sáng của tiếng Việt để sử dụng ngôn ngữ một cách chuẩn mực; góp phần làm cho tiếng nói của dân tộc ngày càng đáp ứng nhu cầu giao tiếp của con người trong thời kỳ hội nhập cũng như thể hiện được tình yêu đất nước, lòng tự tôn dân tộc của mỗi người con đất Việt. « - Viết được bài phát biểu trong lễ phát động phong trào hoặc một hoạt động xã hội. « - Học sinh nhận thức được một cách tự nhiên về giá trị của văn học cùng sự kết nối chặt chế giữa văn học và cuộc đời ở lăng kính chiêm nghiệm của riêng mình. A. KIẾN THỨC NGỮ VĂN I. Khái niệm chung về văn học + - Hiểu theo nghĩa rộng: Văn học là loại hình nghệ thuật thuộc kiến trúc thượng tầng và sử dụng ngôn từ một cách nghệ thuật. » - Hiểu theo nghĩa hẹp: Văn học chỉ bao gồm các sáng tác vừa có ngôn từ nghệ thuật vừa có hình tượng nghệ thuật. Theo Từ điển thuật ngit oăn học, văn học “là loại hình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn từ”; “phản ánh đời sống xã hội, thể hiện sự nhận thức và sáng tạo của con người”. Như vậy, ta có thể hiểu: văn học là bất kỳ tác phẩm nào bằng văn bản - được coi là một hình thức nghệ thuật mang giá trị nghệ thuật hoặc trí tuệ; thường có cách triển khai ngôn ngữ khác biệt so với cách sử dụng ngôn từ trong đời thường hoặc ở các lĩnh vực khác. Nếu như điện ảnh là tỉnh hoa nghệ thuật kể chuyện bằng hình ảnh, âm nhạc thu hút người nghe bởi giai điệu, hội họa gây ấn tượng bằng đường nét — bố cục— màu sắc; thì “chất liệu” chính ======= PAGE 8 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? tạo nên cái “hồn” cho văn chương chính là ngôn từ. Khám phá vẻ đẹp của văn chương, chính là ngây ngất tìm hiểu về vẻ đẹp của ngôn ngữ tỉnh túy mà người câm bút đã sử dụng trong tác phẩm của mình. II. Văn học là một hình thái ý thức xã hội thẩm mĩ Ý thức xã hội khác Ý thức xã hội thẩm mĩ (nghệ thuật) - Phản ánh các mặt cụ thể, | - Phản ánh hiện thực dưới góc độ thẩm mĩ + Hướng tới giá trị Chân - Thiện - Mỹ. - Phản ánh hiện thực bằng hình thức nghệ thuật cụ thể, sống động, hấp dẫn (tạo nên các hình tượng nghệ thuật). - Phản ánh hiện thực qua lăng kính của sự tưởng riêng biệt của hiện thực một cách thực tế, trần trụi, đúng như bản tính vốn có của sự vật. - Phản ánh hiện thực bằng các khái niệm trừu tượng (điển hình như ý thức tôn giáo). tượng, hư cấu. - Bồi dưỡng cái đẹp cho người đọc bằng cách gây xúc động, khơi gợi niềm vui, sự thích thú,... Văn học là một hình thái ý thức xã hội thẩm mĩ (phân biệt với các hình thái ý thức xã hội khác như khoa học, tôn giáo, chính trị, đạo đức...) đồng thời là một loại hình nghệ thuật (phân biệt với hội họa, âm nhạc, điêu khắc, kiến trúc, sân khấu, điện ảnh...) TII. Chức năng của văn học Chức năng của văn học là tầm quan trọng, ý nghĩa, giá trị, sức ảnh hưởng, sức tác ũ với ¡ và đối với mỗi cá nhân. Mặc dù sự hồ nghỉ đối với tính có ích của văn học luôn tồn tại trong lịch sử nhưng sự hiện diện của nó đến giờ phút này cùng với nhân loại là minh chứng hiển nhiên cho giá trị, ý nghĩa của nó. Chức năng văn học, một mặt, cần được tiếp cân trong tính lịch sử. Do ý niệm văn học biến thiên trong lịch sử, các chức năng của văn học cũng có sự vận động theo. Mặt khác, chức năng của văn học cũng cần được tiếp cận trong tính cấu trúc. 1. Chức năng thẩm mĩ Chức năng chức năng quan trọng và đặc trưng nhất của văn học. Trong đời sống tỉnh thần của con người thì nghệ thuật đảm đương trọng trách biểu hiện và truyền thụ cái đẹp. Những hình thái ý thức khác của xã hội như triết học, khoa học,... đều có chức năng nhận thức và giáo dục của nó. Nhưng chỉ có trong nghệ thuật, chức năng thẩm mĩ mới được đặt ra một cách bắt buộc. ======= PAGE 9 ======= Chức năng thẩm mĩ trong văn học chính là khả năng thỏa mãn các nhu cầu thấm mĩ của người đọc. (Thẩm mĩ: năng lực cảm thụ cái đẹp). Các biểu hiện thường gặp của chức năng thẩm mĩ trong văn học: e© _ Văn học miêu tả những cái đẹp vốn có trong đời sống hiện thực: cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, phong tục tập quán xã hội,... e _ Văn học khám phá những vẻ đẹp phía sâu bên trong tâm hồn của con người. s Văn học khiến người đọc rung động bởi chính vẻ đẹp của nghệ thuật. Người đọc cảm thấy vui sướng, thích thú khi đọc một câu văn hay, mượt mà, khi đọc một đoạn thơ du đương giàu nhạc tính... Đó chính là những “khoái cảm thẩm mĩ“ đặc biệt dành riêng cho những người yêu ngôn từ. ! Lưu ý: Các phần sau sẽ triển khai chỉ tiết và mở rộng hơn, dành cho những bạn ! ~. ` . ^ˆ ` + v ~ ~- ụ x L muốn tìm hiểu sâu hơn về chức năng thẩm mĩ của văn học. I 1.1. Văn chương thỏa trãn nhu cầu thưởng thức cái đẹp, nhu cầu giải trí khơi dậu những khoái cảm nghệ thuật Nhu cầu về cái đẹp là nhu cầu quan trọng, có tính “bản chất” của con người. Thỏa mãn nhu cầu ấy là lý do trực tiếp nhất cho sự tồn tại của văn học. Văn học mang đến cho con người trải nghiệm thưởng thức, hưởng thụ cái đẹp. Văn chương làm thỏa mãn như cầu thẩm mĩ của người đọc trước hết bằng việc miêu tả và phản ánh cái đẹp trong tự nhiên và xã hội. Cái đẹp là có khả năng đưa đến cho người ta một khoái cảm (có thể là một sự hưng phấn, một niềm thích thú hay một nỗi xúc động). Việc phản ánh này thường có chọn lọc và gắn liền với tài năng sáng tạo của nghệ sĩ. Nhờ vậy, cái đẹp của đời sống khi đã được đưa vào nghệ thuật vẫn khoác lên mình vẻ đẹp riêng qua lăng kính cá nhân cũng như bàn tay “đẽo gọt” tỉ mỉ của người cầm bút. Nghệ thuật không chỉ miêu tả, phản ánh cái đẹp trong tự nhiên, xã hội mà còn sáng tạo ra “cái đẹp mới” chưa tồn tại trong hiện thực. Tác phẩm nghệ thuật là kết tỉnh tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ, nó không đơn thuần chỉ là toàn bộ chất liệu hiện thực được thuật lại bằng ngôn ngữ. Bản thân hiện thực chưa “làm nên” những vần thơ hay những câu chuyện. Phải qua trái tim, tư duy và khả năng ngôn từ điêu luyện của tác giả, tác phẩm nghệ thuật mới được hình thành. Nó không chỉ là tư tưởng, tình cảm tài năng của nhà văn mà nó còn là “cái đẹp mới” ~ một “cái đẹp” độc bản mang theo dấu ấn riêng, “vân chữ” riêng của người sáng tác ======= PAGE 10 ======= Cá (Á£ 6ạn thức mắc. sự kể ngấ¿ ngướt (ôn duạn. đang nhác tái è đâu cá ngÑ (à nc (Ñổ nào ? Tiên tác tế. xuyốn ða4F (Ñee đêng câu. của (Ñáng: năm, uấn ñạc vẫn nÑ?ệ‹ lấn (sở tÑhànÄ, cñủ. Âể Âàn tán, ÉxanÉ, cải 6ải túnÊ, cá &É,” càa né đ០uất đ8¿ aấng xã kệt. Ñhớu người từy vằng dẫn đạc (ước dự cá Ú ngÑữ uà, giá ý (RöáE tực. lần đạc Êhắc hạa những bang đời qua lăng Éún|, và ngài ÍᣠAiÔnG. của, nuấy người nghệ đề: văn ñạc giáp Éa mà mang Ấẩu ác — (ví (hức — cảm nhận của chúaW, mànÑ; uăn ñạc cÁa đậc già cứ hột Áược ống nHướu cuậc đồ” Giang mật tiáp nÑàân đón Rau hạn, nÂà 6ó, Ñueng càng bảng, (Âlốu, nguài càm, (hấu văn ñạc Íà mộÉ ảnÉ, tăng Wạa dãt” đấu ào mộng xa vời. PÍg ông tìm được aự ñéE nết vết uăn cue#ng, cũng. lãng cảm (Ñấy các tác phẩờm uăn Íạo cá ý nghĩa uái mùnÑ.. ÂÑiông người ez sâu uể uăn lạc đt Éúe càn phải chịu nồng ánŠ, nÂòa Âốm của ngườc đầt, đa phẩ» xuất phản từ ý, Ás ñạ Ñâng. thấy được gúá Đệ thực tiỗn của ăn, cÍusSt2, (ung ta &Ñá lồng phá», xót nhường quan, Ấiổn Éà oa¿ Ñau. đúng, Ôâ¿ mỗi nguït có những Giải ngÍiệm uà duy, ngầm Ñhác nhau. Tuy niên, nữa vào dụ (ẩn ta đấu, liôu ÑãnÑ. 6x É¿ uà ÉÑâng ngừng phá tuổy của uăn cÑuưeng, (Ñee nÏệp uận đậng cùng. năm (háng, ta Ñúểu vằng dàn lạc thực dụ cẩn (ớt uấi cuộc đc uà, cÑ ủng, (hổ nàa gục nga Guuác. sự Âăng, ñag¿ của CÂt giay. Cá 6# vàng cá nÂ(ôu lan Rẹc dư, đốn uất văn, Éằng âm (Ñế áp đặt, É¿ ép kuậc pÁai Kạc đổ d: tẪ¿ (loa gôu câu của Ẳa mẹ, nà tuuềng. Ẩang mã? của cễ tuân chăng, đường gặp ¿8 uà đông, ÑànÉ, cùng, các 6ạn è tuát lồ ae đẹp nàu, (đà cÁ¿ qua, nhàng lang ðácR, hay gần gái Ñauu (ề xeng nhàng (ấp hạc), ng chỉ đồ càng các ạn âa đó THPT (QG. chính, phục — (úé phá 9+ lăn, mà cản đồ KÑs¿ ggc những nguấy cảm, frững ÉđfÉ tận, từ vần, chưang, đối vớt Éá¿ từm các Êạn. xảy đập uà 6o&i (Âm cña nàng mànẴ, vuần, ÉiöE âu càn đong KÑ@ cửn, kéo da... Tà cô, tuuác ÑÁu Íà một "cự giáa lăn. mật táo già dácÑ, cÑ¿ đựn Chuẩn, đà, mệ€ người §(ÁÉ dừa dức mạn, của vấn, cña đông, vê cũng. JMang vằng các 6ạn dễ phi» nào cảm nhận, được điêu đó quá nàng cuậc xẻ chuuôn của cúng mùnÑ, biên Èxang dácÑ, nÂa. (ân §ây. giờ thù Ñau, càng cô &ÑÁm, pÄá các kiớn thức É, luận vớ chúc năng. của văn học uất đt sãng, can người nÑó/ THAY, ======= PAGE 11 ======= Vi du: Bên cạnh uẻ đẹp tự nhiên của tạo hóa, bầu trời, uầng trăng, dòng sông, con suỗï,... khi “bước ào” những trang 0ăn sẽ có một “linh hồn” riêng, điện mạo riêng bởi cách khắc họa của người uiết. Chẳng hạn, dòng sông Hương trong nhiều sáng tác của những người nghệ sĩ, ãa phần sẽ được biết đến oới oẻ lộng lẫy chốn kinh thành, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường lại cho độc giả cơ hội “sặp sỡ” nguồn, uượt qua bao gian truân để được 0Ề uới thành phố duy nhất mà nàng nnsuuện trao trọn con một nàng Hương Giang hoàn toàn khác biệt: mạnh mẽ, cuộn trào, dữ dội ở thượng tim. Trong ngồi bút đậm “chất tương tư” của câu bút nặng lòng uới xứ Huế sông Hượng không chỉ là một dòng sông tô trị tô giác đi theo sự sắp đặt của tự nhiên, tạo hóa; mà thực sự trở thành một sinh thể độc lập, có tâm hồn, có sự lựa chọn, có niềm khao khát riêng. Chân dung “nàng thơ” của cố đô như một người thiếu nữ tha thiết tìm đến uới người tình trong mộng của mình, ôm trong lòng bao thương nhớ... Như uậu, dòng sông Hương trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của nhà oăn Hoàng Phú Ngọc Tường đã trở thành một “cái đẹp mới” của nghệ thuật. 1.2. Tác phẩm oăn chương còn hình thành thị hiếu, lý tưởng thấm mĩ, đánh thức bản chất nghệ sĩ oà cảm hứng sáng tạo của con người “Thị hiếu thẩm mĩ” là năng lực của con người trong việc tiếp nhận và đánh giá các khách thể thẩm mĩ. Văn học giúp ta hình thành lý tưởng thẩm mĩ: Mục đích nghệ thuật không phải chỉ đơn thuần tái hiện tất cả những gì về phẩm chất mà con người hiện có hoặc đưa con người vào những khuôn khổ gò bó. Thưởng thức văn học - nghệ thuật là cơ hội để con người đào sâu khám phá chính bản thân mình, chạm vào “mảnh vườn tâm hồn” của mình để từ đó nhâm nhi những mùi vị của cảm xúc mà đôi khi mình chưa từng được trải qua trong đời sống thực tại. Lý tưởng thẩm mĩ ở đây là hình ảnh giá trị thẩm mĩ cần phải có, là lý tưởng về đời sống phù hợp với quan niệm của cá nhân về cái đẹp. Bản thân con người không bao giờ tự thỏa mãn với mình mà luôn luôn có nhu cầu vươn lên cái cao xa hơn; vươn lên “con người lý tưởng” với cơ sở là con người hoàn thiện về lý tưởng thẩm mĩ. Trên thực tế, những người có “vốn đọc” phong phú thường rất giàu có về đời sống tỉnh thần, xây dựng được những lý tưởng thẩm mĩ của riêng mình qua quá trình tích lũy. Nghệ thuật đào tạo năng khiếu thẩm mĩ: Do tiếp xúc với nghệ thuật mà các giác quan của con người tỉnh tế, nhạy bén, góp phần phát triển năng lực cảm thụ. Nghệ thuật hun đúc cho con người khả năng cảm thụ tính tế, đánh giá đa chiều và phong phú về cái đẹp trong cuộc sống; đồng thời khiến tư duy - nhận thức về nghệ thuật ngày càng vững chắc, sâu sắc hơn. Như Các Mác viết: “Nếu anh muốn hưởng thụ nghệ thuật, thì anh phải là con người có kiến tức UỀ nghệ thuật”. 10 ======= PAGE 12 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? 1.3. Văn chương thanh lọc tâm hồn cơn người Thế giới nghệ thuật vừa là hình ảnh của bản thân hiện thực được phản ánh chân thật; oừa là thế giới của ước mơ, của cái đẹp, của khát uọng uà những hình dung tưởng tượng trong tâm trí người cầm bút. Văn học nghệ thuật mang đến cho người đọc “sự đền bù về mặt thẩm mĩ” khi họ được sống trong thế giới nghệ thuật nơi mà cái ác, cái bất công sẽ bị trừng trị; cái tốt, cái thiện sẽ được ngợi ca, nâng nu. Cần phải hiểu rõ: Văn học có tính thẩm mĩ KHÔNG có nghĩa là văn học chỉ viết về Văn học không lắng tránh, mà ngược lại, nỗ lực đối diện với cái xấu xa, thấp hèn, từ đó giúp bạn đọc nhận thức được sự tác động sâu sắc của những cái méo mó, xấu xí trong cuộc đời đến con người, đến sự sống. Các tác phẩm nghệ thuật góp phần xây dựng phản xạ và ý thức tránh xa cái xấu; để con người hướng mình về cái đẹp, cái thiện ở đời. Cái đẹp của văn học không thể bị sở hữu bởi riêng cá nhân nào, cho nên việc cảm thụ cái đẹp là hoàn toàn vô vụ lợi (nghữa là rất trong trẻo, thuần khiết, không vì những mục đích thu về ích lợi cho cá nhân), nó giúp tâm hồn con người được thanh lọc, tránh xa những điều ích kỉ, tầm thường trong cuộc sống thường nhật. Khoảnh khắc con người xúc động trước cái đẹp là khoảnh khắc con người sống trong tự do nơi tâm hồn. Cái đẹp của uăn học nô tư (bởi cảm thụ cái đẹp là món quà địu dàng và thuần khiết dành cho độc giả) nhưng không nô tâm (bởi nó luôn hướng người đọc đến những suy tư, trăn trở, trách nhiệm về các vấn đề của cuộc sống, của thời đại.) 2. Chức năng nhận thức “Văn chương là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội”. Luận điểm này của mĩ học Mác - Lênin có một ý nghĩa quan trọng trong việc xác định giá trị của văn chương nghệ thuật, trong đó nổi bật là giá trị nhân thức. (Nhận thức: là quá trình ận động của não bộ 0à các giác quan để nhận biết thế giới hiện thực xung quanh mình ở nhiều lĩnh oực khác nhau.) Văn học là sản phẩm sáng tạo ngôn từ của người nghệ sĩ, biểu hiện tư tưởng - góc nhìn - lăng kính riêng của nhà văn về thế giới, về con người. Tuy nhiên, dẫu là sản phẩm có màu sắc chủ quan, thậm chí có thể có sự tưởng tượng, hư cấu, nhưng văn học vẫn luôn bắt nguồn từ hiện thực. Người nghệ sĩ sẽ đặt bút sáng tác về thế giới xung quanh theo những chiêm nghiệm và những hình dung, mong cầu riêng. Vì thế: tiếp nhận văn học là quá trình tiếp nhận một nhận thức được biểu hiện bằng tác phẩm với hình tượng nghệ thuật cụ thể. Lưu ý: Các phần sau sẽ triển khai chỉ tiết và mở rộng hơn, dành cho những bạn muốn tìm hiểu sâu hơn về chức năng nhận thức của văn học. 11 ======= PAGE 13 ======= 2.1. Tác phẩm oăn học là một công cụ nhận thức Sáng tạo văn chương nghệ thuật trước hết là một hành động nhận thức của tác giả v thế giới: nhận thức về sự vật, về con người, về đời sống xã hội và về cả chính bản thâ. mình. Muốn sáng tạo trước hết phải có hiểu biết, có nhận thức của riêng mình về thế giới. Nhưng nhận thức không phải chỉ đơn thuần là hiểu biết theo nghĩa sát sạt, mà nó ph¿ tiến lên cấp độ cao hơn: “khám phá” - tức là phát hiện ra những mặt nào, yếu tố nào bả chất, là quy luật trong sự phức tạp, muôn màu muôn vẻ của hiện thực. Sứ mệnh nhận thức của văn chương: tim ra quụ luật của đời sống. Nếu chủ dừng lại nghĩa bê mặt của hiện thực, văn chương sẽ chỉ đơn thuần đem tới những nhận thức đơ giản, máy móc. Sở đi nói văn học là một môn khoa học chính là để nhấn mạnh ý nghữa, tâm quan trọn tính chính xác của khả năng nhận thức, biểu hiện, khám phá thế giới của nó. Tuy nhiê: nhận thức khoa học và nhận thức văn học là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Bởi lẽ, h thức trong văn học nghệ thuật đem lại cho con người về bản chất và quy luật của thế gié không phải bằng những khái niệm, công thức, định lý mà bằng phương thức thể hiệ riêng: hình tượng nghệ thuật. Nghệ thuật nhận thức các hiện tượng tự nhiên, xã hội tron văn học nghệ thuật không phải là tái hiện trực tiếp mà là tái hiện sáng tạo. Mặt khác, sĩ nhận thức ấy sẽ thông qua con đường là tình cảm thẩm mĩ. Tác phẩm văn chương hoàn thành sứ mệnh là công cụ nhận thức khi người đọc tiếp xú với nó không phải là tiếp xúc với cái thế giới mà mình nhìn thấy ở bên ngoài; mà là gặp gí một thế giới mới được tạo nên bởi nhận thức của người cầm bút. 2.2. Biểu hiện của chức năng nhận thức ở uăn học * Văn học cung cấp tri thức về mọi mặt của cuộc sống. Có quan điểm cho rằng “Văn học là sách giáo khoa của đời sống, là cuốn bách kho: toàn thư, thậm chí là kinh thánh”. Văn học cung cấp tri thức bách khoa về cuộc sống vớ những kiến thức khác nhau về mọi lĩnh vực xung quanh ta như: địa lí, lịch sử, phong tục tôn giáo, đạo đức, văn hóa,... Văn học đưa ta đến những chân trời hiểu biết mới, giúp ta hiểu được cuộc sống không chỉ trong hiện tại mà còn ở cả thì quá khứ, không chỉ trong phạm vi đất nước mình mà còi cả ở các xứ sở xa xôi khác. Văn học cho phép ta được “du hành” cả về không gian, thờ gian; đem đến cơ hội để độc giả được “nếm trải” cuộc sống một cách phong phú, đa dạng Từ đó, độc giả được sống nhiều hơn, sống sâu hơn, sống dài hơn với những cuộc đời khả nhau trong các tác phẩm. 12 ======= PAGE 14 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Vị dụ: Ăng-ghen từng nhận xét uề “Tấn trò đời” ¬ bộ “bách khoa toàn thư” uề cuộc sống của xã hội Pháp nửa đầu TK XIX như sau: “Ban-dắc mô tả toàn bộ lịch sử xã hội Pháp, trong đó ngay cả những chỉ tiết kinh tế (thí dụ như niệc phân phối lại quyền tư hữu thực tế uề quyền tư hữu cá nhân sau cách mạng) tôi đã học tập được nhiều hơn là tất cả các sách của các nhà sử học, các nhà kinh tế học, các nhà thống kê chuWên nghiệp thời ấU cộng chung lại.” Lời nhận xét “có cảnh” này đã cho thấu rõ sức mạnh biểu đạt mạnh mẽ của ăn chương, tăng cường uà mở rộng nhận thức cho bạn đọc tê các lĩnh uực nhất định hoặc một giai đoạn cụ thể trong tiến trình lịch sử. * Nội dung nhận thức cơ bản nhất của văn học vẫn là đời sống tỉnh thần sâu kín và số phận cá nhân của cơn người. Đó là một thế giới phức tạp, nơi những nghịch lý liên tục được nảy sinh, khó phân tách rạch ròi sai - đúng, xấu - đẹp. Kể cả là người nhiều tuổi nhất, đi nhiều nơi nhất, từng trải nhất, cũng khó lòng quả quyết rằng bản thân đã hiểu hết về “muôn kiếp nhân sinh”. Vì thế, thông qua hành trình thưởng thức các tác phẩm văn học, độc giả có cơ hội được mở rộng thêm một chút lăng kính còn hạn hẹp của mình về con người. * Văn học giúp con người tự nhận thức về bản thân mình; đem đến cho ta cơ hội nhìn nhận và tự kiểm điểm chính mình. Văn học như một tấm gương, một mặt hồ có thể không phẳng lặng, trong trẻo, nhưng sức phản chiếu vô cùng lớn lao; để mỗi độc giả sơi chiếu mình vào đó, nhận ra một góc khu- ất trong tâm hồn, nhận ra những tình cảm mong mỏi tha thiết mà có thể lúc bình thường ta chưa đám đối điện hoặc tình cờ lãng quên. Bạn đọc có cơ hội nhận ra những gì thắm sâu mà chân thật nhất của chính mình, để chạm vào thế giới nội tâm và từ đó hiểu mình, hiểu đời hơn nữa. »_ Đối với nhà văn: Quá trình sáng tác giúp người cầm bút nhận thức sâu sắc hơn về cuộc đời và về chính mảnh. »_ Đối với độc giả: “Văn học có nhiệm vụ buộc người đọc nhìn nhận chăm chú hơn, nghiêm khắc hơn với bản thân. Từ đó, hiểu sâu sắc sự thật về bản thân.” (Dịch giả/ Nhà lý luận phê bình Hoàng Ngọc Hiến) 3. Chức năng giáo đục Các Mác viết: “Triết học không những chỉ nhằm giải thích đúng đắn thế giới khách quan mà quan trọng hơn là “cải tạo thế giới”.” Lê-nin thì quan điểm: “Nghĩa là thế giới không thỏa mẫn con người 0à con người quuêt định biến đổi thế giới bằng hành động của mình”. 13 ======= PAGE 15 ======= Văn chương là một hình thái ý thức xã hội, do vậy không nằm ngoài quy luật nhận thức trên của con người. Văn chương không chỉ có chức năng nhân thức thế giới mà còn có chức năng cải tạo thế giới. Sứ mệnh này được thể hiện qua chức năng giáo dục. 3.1. Khái niệm chức năng giáo dục Chức năng giáo dục là khả năng tác phẩm văn học truyền đến người đọc những bài học đạo đức, nhân sinh, tác động tích cực vào tam quan của độc giả (nhân sinh quan, thế giới quan, giá trị quan). Con người trong triết học và con người trong văn chương đều có đặc điểm là họ không thỏa mãn với thế giới hiện tại (vốn đĩ cuộc sống đâu bao giờ là lý tưởng sẵn có, đâu thể nào “ngay ngắn” một giấc mơ màu hồng), những điều bất như ý ấy là một động lực để con người luôn hướng tới sự hoàn thiện, sự lý tưởng bằng cách cải tạo thế giới đúng như ý nguyện của mình. 3.2. Đặc điểm chức năng giáo dục của oăn học Tư tưởng của nhà văn thể hiện trong việc nhận thức và phản ánh hiện thực: Tác phẩm văn chương là sản phẩm ý thức của nhà văn, là kết quả của quá trình lao động sáng tạo cẻ mục đích. Nhà văn mong muốn kí thác một tâm tư, gửi gắm một thông điệp, bài học đi truyền đạt đến bạn đọc. Khi những điều ấy từ người cầm bút tác động đến độc giả sẽ giúr họ nhận thức được cuộc sống đúng đắn hơn, có những sự lựa chọn và những lối đi đúng. 3.3. Quá trình giáo dục độc giả của oăn học Trong khi những hình thái ý thức xã hội khác có xu hướng giáo dục con người bằng những khái niệm, luận điểm, lý thuyết,... qua con đường lý trí - thì oăn học giáo dục bằng trái tìm, bằng xúc cảm, bằng những thổn thức nơi tâm hồn. Văn học giáo dục con người về điều hay, lẽ phải, hướng con người đến các giá trị Chân ~ Thiện - Mỹ thông qua việc phản ánh cả mặt tốt và xấu của hiện thực đời sống. Văn học ca ngợi cái đẹp — cái thiện; đồng thời vạch trần, phê phán, tố cáo cái xấu. Thế nhưng, nếu văn chương chỉ vạch trần cái Hêu cực không thôi thì nó mới thực hiện được một nửa nhiệm vụ của chức năng giáo dục, đó là nhiệm vụ “phá” — chứ chưa làm được nhiệm vụ “xây” (chức năng cải tạo thế giới). Vì thế, những người cầm bút còn nỗ lực dùng ngòi bút của văn chương để vươn lên khỏi cái xấu, chạm tới một thế giới mới tốt đẹp hơn. Như nhà văn Thạch Lam từng trăn trở “Đối uới tôi oăn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát lụ hau sự quên, trái lại ăn chương là một thứ khí giới thanh cao uà đắc lực mà chúng ta có, để uừa tố cáo nà thay đổi mộ. 14 ======= PAGE 16 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? 3.4. Văn học có khả năng chuyến từ “giáo dục” thành “tự giáo dục” Điều này có nghĩa là thay vì đưa ra những bài học, thông điệp cụ thể, đôi khi khô khan, giáo điều và có thể gượng ép, áp đặt; văn học tác động vào tâm hồn của độc giả - lay động những trái tim để từ đó họ liên hệ bản thân mình, họ được gọi dậy những tâm tư mà trước đó còn ngủ quên; từ đó họ tự giác nhận ra một bài học mới cho mình. Văn học đã bồi đắp tâm hồn - cội nguồn cốt lõi của đạo đức. Tác dụng giáo dục của văn học nghệ thuật là tác dụng từ từ, lâu bền, nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng vô cùng sâu sắc. , I Lưu ý: Phần sau sẽ triển khai chỉ tiết và mở rộng hơn, dành cho những bạn muốn Ị ¡ — tìm hiểu sâu hơn về chức năng giáo dục của văn học. | Ví dụ: Trường ca “Mặt đường khát uọng” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ra đời năm 1971 nơi chiến trường Trị - Thiên khói lửa, giữa bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra uô cùng khốc liệt. Tác giả sáng tác uới mong muốn khơi gợi nhận thức uề sứ mệnh của tuổi trẻ triều Nam Việt Nam uùng tạm chiếm, để họ hòa mình uào câu chuyện chưng của cộng đồng. Mục đích “giáo dục” của tác phẩm được thiết lập tô cùng rõ rằng từ đầu. Tuy nhiên, để thực hiện mong mỗi ấ), nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không đưa ra những lý luận khô khan, giáo điều, không khẳng định những câu hô hào mang tính khẩu hiệu cao; mà dẫn đắt bạn đọc qua những lời thơ dịu dàng, đầm thẦm, trĩu nặng tình cảm của một người yêu nước à biết ơn nhân dân tô bờ, để từ đó bạn đọc tự nhận ra mỗi quan hệ sâu sắc giữa bản thân 0à quê hương mình. 4. Chức năng giao tiếp và giải trí Văn học từ lâu đã trở thành một phương tiện giải trí, một con đường dẫn tới ngưỡng cửa đa xúc cảm thông qua hệ thống hình tượng nghệ thuật độc đáo. Người nghệ sĩ tạo nên một thế giới nghệ thuật của riêng mình, và khi độc giả bước chân vào không gian ấy, họ sẽ đần tìm thấy những sợi dây kết nối đồng điệu, họ sẽ chạm đến một ngôn ngữ chung để “giao tiếp” với người viết qua những trang văn, qua đó thỏa mãn những nhu cầu xúc cảm của chính mình. 15 ======= PAGE 17 ======= B. ĐỌC VĂN BẢN 1 CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Trích) Nguyễn Minh Châu TRƯỚC KHI ĐỌC ` a. Theo em, một sự vật hay hiện tượng nào có thể coi là cái đẹp? b. Đứng trước những điều bản thân em thấy đẹp, em sẽ cảm thấy thế nào? Em có thới quen tìm cách lưu giữ lại “cái đẹp” đó hay không? c. Theo em, văn học - nghệ thuật và cuộc đời con người có mối quan hệ như thế nào? d. Nhan đề tác phẩm gợi cho em những phỏng đoán ra sao về tình tiết của \ câu chuyện? | ĐỌC VĂN BẢN (Lược một đoạn: Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật 0ề thuyền uà biển thật ng Ú, trưởng phòng đề nghị Phùng — nhân oật xưng “tôi oào sinh ra tử trong quá khứ để bảo oệ Tổ Quốc) - âi thực tế để chụp một bức ảnh uới cảnh biển (một nhiếp ảnh gia, một người lính từng buổi sáng có sương mù. Phùng quuết định lên đường nề ới uùng biển là chiến trường cũ năm xưa của anh. Ngoài thực hiện nhiệm oụ được giao, Phùng còn muốn ghé thăm Đấu — người đồng đội cũ hiện là chánh án tòa án huyện. Sau một tuần tích cực kiếm tìm oà lưu giữ lại những khoảnh khắc trong ống kính máu ảnh của mình, cuối cùng Phùng cũng có một bức hình ưng ý.) ++* Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng! để tránh mưa, đang lúi húi thay phim lúc ngấng lên thấy một chuyện hơi lạ: một chiếc thuyền lưới vó? mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo thẳng vào trước mặt tôi. \ # m 1a: VN ¬ 1. Đây là bãi xe € tăng hông do do quân ngụy tháo chạy để lại khí bị quân giải phóng tấn công vào mùa xuân năm 1975, 2. Thuyền lưới vỏ: Thuyền đ đánh cá có hai gọng ở mũi thuyền để giăng lưới, ki khi cá được đến vào thì cất lên. như hất vó. - "“.- 16 hs... " ~. —à ======= PAGE 18 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Có lẽ suốt một đời câm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong gần tâm hồn. Chẳng phải lựa chọn xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pratica cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại. Tôi chắc mẩm ngay trong ngày hôm nay hoặc sáng mai đã có thể nhảy lên tàu hỏa trở về, nếu cái anh bạn đồng ngũ không cố níu giữ ở lại chơi thêm vài bữa. Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá” nước ngập đến quá đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Chắc chắn họ không trông thấy tôi. Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà. Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàn Y 3. Phá: vùng biển ăn sâu vào dất liền. 1 ======= PAGE 19 ======= tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bít chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chệ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân. Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắi lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đav đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhời”. Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy. Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cụ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới. Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác ~ thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch sự giận đữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạr trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông Cũng y hệt người đàn bà, thẳng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi mới biết là nó khỏe đến thết Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền rướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền giang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi lão lắng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Không hề quay mặt nhìn lại, chỉ có tảng lưng khum khum và vạm vỡ càng có vẻ cúi thấp hơn, nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng. Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô cùng 18 ======= PAGE 20 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? xấu hổ, nhục nhã. ¬ Phác, con ơi! Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt, nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chẳng chịt. Thế rồi bất ngờ người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi cát xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc thuyền. Khoảnh khắc sau, bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ. Giữa tiếng sóng ngoài khơi dội những tiếng kêu ồ ồ vào cõi im lặng, chỉ có tôi và thằng bé đứng trơ giữa bãi xe tăng hỏng, trên tay thằng nhỏ vẫn cầm chiếc thắt lưng, hai chúng tôi đưa mắt ngơ ngác nhìn ra một quãng bờ phá vừa ban nãy chiếc thuyền đậu. Như trong câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất. (Lược một đoạn: Thằng bé Phác là con của cặp uợ chồng hàng chài. Phác xa lánh, thù ghét Phùng tì anh đã tô tình chứng kiến chuyện của gia đình mình. Ba hôm sau, cũng trong làn sương sớm, neaU tại địa điểm lần trước, Phùng lại chứng kiến cảnh người đàn ông đánh uợ. Lần nàu, có thêm sự xuất hiện của chị gái Phác. Người chị sau khi rượt đuổi oà uật nhau uới Phác đã tước được con dao găm mà cậu bé định dùng làm 0ñ khí phản kháng bố để bảo uệ mẹ. Không thể nén chịu được nữa, Phùng xông ra buộc lão đàn ông chấm dứt hành động độc ác của mình oà bị lão đánh trả. Phùng bị thương, được đưa uề trạm u tế ở toà án huyện. Phùng à Đẩu mời người đàn bà đến tòa án huyện để khuyên nhủ mụ bỏ người chồng uũ phụ ấu. Thế nhưng, trong chính cuộc nói chuyện tại tòa án huuện, họ mới nhận ra mọi thứ đâu đơn giản như những gì họ hình dung.) Tôi thầm cảm ơn Đẩu đã giữ mình ở nán lại. Nếu thiếu nữ không đi theo mẹ đến tòa án - người đàn bà mặt rỗ hai lần tôi giáp mặt trong bãi xe tăng hỏng - thì chắc chắn tôi không thể nhận ra đó chính là đứa con gái ướt sũng từ đầu đến chân, đã vật nhau với thằng Phác để tước lấy con đao găm. Thiếu nữ mảnh dẻ trong tấm áo cánh màu tím nhạt. Lại một cặp mắt như cặp mắt của đứa trẻ lên năm mà tôi đã chọn để cầm vứt một nắm phoi bào ra giữa ngọn sóng bạc đầu - một cặp mắt đen của chiếc thuyền mới đóng. Tuy chẳng hiểu chút gì về nghệ 19 ======= PAGE 21 ======= thuật điện ảnh, nhưng bất giác tôi cứ nghĩ giá sau này cần một vai như kiểu nàng tiên cá thì nhất thiết phải chọn người thiếu nữ này. Tôi tự hỏi chẳng lẽ cái nhan sắc đang độ trẻ con như đức từ trời biển trong suốt, nên thơ này lại được tách ra từ da thịt của một người đàn bà hàng chài xấu xí và đau khổ? Người đàn bà dặn con gái hãy ở lại dưới thuyền rồi với đáng đi mệt mỏi, chậm chạp như một bà già, trèo lên những bậc đá xếp từ bờ phá lên một con đường nhựa đã long lở, hai bên đường phơi đầy lưới chài, của phố huyện vùng biển. Người đàn bà vẫn mặc chiếc áo màu bạc phếch vì nước mặn, một miếng vá bằng vải xanh bằng bàn tay trên vai, những nốt rỗ trên mặt có vẻ thưa ra, đứng trong phòng làm việc của Đấu, tôi nhận ra ngay mụ. Hôm nay người đàn bà rời chiếc thuyền vó bè “đổ bộ” lên tận đây theo giấy triệu tập của tòa án huyện. Đây là lần thứ hai, người đàn bà được Đầu mời đến về công việc gia đình. Cũng không phải là lần đầu đến một nơi công sở nhưng người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng — cái vẻ lúng túng, sợ sệt mà ngay lúc mụ đứng giữa bãi xe tăng cũng không hề thấy có. Người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má liền tìm đến một góc tường để ngồi. Ngồi sau một chiếc bàn lớn, Đẩu nhổm đậy chỉ chiếc ghế mây trước mặt, cố làm ra vẻ thân mật: ~ Chị ngồi lên đây, sao lại thế, hãy ngồi lên chiếc ghế này... Đấu phải nói đến lượt thứ hai, mụ mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại. Đầu hỏi: - Thế nào, chị đã nghĩ kỹ chưa? Người đàn bà ngước lên nhìn Đẩu, rồi lại cúi mặt xuống. — Thưa đã... Đầu gật đầu. Anh đứng dậy. Tự nhiên anh rời chiếc bàn đến đứng vịn vào lưng ghế người đàn bà ngồi giọng trở nên đầy giận đữ, khác hẳn với giọng một vị chánh án: ~ Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào? Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay vái lia lịa: 20 ======= PAGE 22 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiều? - Con lạy quý tòa... - Sao, sao? - Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó... Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngoài và phòng ngủ bên trong của Đấu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước ra. Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhốm xoay quanh chiếc ghế như bị kiến đốt, và về sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng tòa án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân chứng. — Chị cứ ngồi nguyên đấy! - Đấu nói và với vẻ đây hào hứng của một con người bảo vệ công lý vừa có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn lớn mà là tôi, với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên mặt. ~ Tùy bà! - Đấu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của một vị chánh án - chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hòa thuận... Đang ngồi cúi xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu ngơ ngác. ~ Chị cám ơn các chú! - Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết - Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc... Chỉ mấy lời mào đầu ấy, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ khác, ngôn ngữ khác. Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi. Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi, một người đáng lẽ mụ phải biết ơn... Nhưng người đàn bà để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của chúng tôi. Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia con đường chính của phố huyện ở đấy, thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc mủng. ======= PAGE 23 ======= Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể: - Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rõ mặt, sau một bận lên đậu mùa, Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả! về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi. Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình: ~ Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc5, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối... cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật. - Vậy sao không lên bờ mà ở? - Đấu hỏi. ~ Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được! — ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi. — Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu... Giá mà lão trống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà đánh... - Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đấu và tôi cùng một lúc thốt lên. ~ Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông... — Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, ~ bất ngờ Đầu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, ~ trên thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo? — Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú? Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp: - Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyên chúng 4. Bả: sợi đan lưới. 5. Vụ bắc: ở biển có hai vụ đánh cá là vụ nam (theo mùa gió nồm nam từ tháng 5 đến tháng 10) và vụ bắc (theo mùa gió đông bắc từ tháng 11 đến tháng 4); vụ bắc thường là mùa biển động. 22 ======= PAGE 24 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên đưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười — vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ. ~ Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? Đột nhiên tôi hỏi. - Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no... Viên chánh án huyện rời chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên những chồng hồ sơ, giấy má. Đầu đi đi lại lại trong phòng, hai tay thọc sâu vào hai bên túi chiếc quần quân phục đã cũ. Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đấu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ. Người đàn bà đã khóc khi nghe tôi nhắc đến thằng Phác. Nhưng tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu cái lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài. Trong cái đám con cái đông đúc đang sống ở dưới thuyền, mụ không yêu một đứa nào bằng thằng Phác, cái thẳng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết - nếu không có cách mạng về. Mụ cho chúng tôi biết, vì sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó, mụ đã phải gửi nó lên rừng nhờ bố mình nuôi đã nửa năm nay. Ở với ông ngoại, thằng bé sướng hơn ở trên thuyền với bố mẹ. Nhưng hễ rời ra là nó trốn về. Thằng bé tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh. Chiều hôm ấy trong khi Đẩu gặp lão đàn ông để giáo dục răn dạy lão thì tôi trở lại xưởng đóng thuyền. Vắng thằng Phác, dù sao cái bãi cát cũng như cả vùng phá nước trở nên trống trải thế nào ấy. Đêm, những đàn chim di cư vẫn vỗ cánh trong sương, bay qua vùng phá. Tôi khoác chiếc máy ảnh đi lang thang cho đến tận khuya, đã mỏi cả chân, tôi đến ngồi bên một ngọn lửa. Nhím phoi bào bắt cháy sang mấy cái đầu mẩu gỗ cưa ra từ các lẻ ván của một chiếc thuyền mới vớt lên được, sau vụ đắm thuyền trong vụ bắc năm ngoái. Gần sáng trời trở gió đột ngột, từng tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen 2 ======= PAGE 25 ======= ngòm, và biển bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu ngoài cửa lạch nổi cồn lên cao như những ngọn núi tuyết trắng. Trong phá, các thứ tầu thuyền đều tìm vào bờ để trú, duy ở giữa phá chẳng hiểu vì sao vẫn còn thấy một chiếc thuyền vớ bè đang đậu. Gió rú ào ào chung quanh chiếc xe reo vừa mới ở trên rừng xuống, chưa giỡ gỗ xuống hết. Cái ông lão đã ngoài sáu mươi mà vẫn còn theo đuổi nghề sơn tràng đang ngồi bên bếp lửa giữa trời, vẫn đặt hai con mắt đầy vẻ lo lắng ra ngoài mặt phá, nơi có chiếc thuyền. Cái bếp lửa cũng bị gió ném tung ra khắp bãi cát, những tàn lửa đỏ rực bay quẩn lên chung quanh chỗ tôi và ông lão ngồi. Tôi xem lại xoong cơm đã sống nhăn hộ ông lão, đoạn gào lên: - Chiều gió này không khéo bão cấp 11 rồi? — Ừ, ừ...!- Ông lão lẩm bẩm, vẫn không rời mắt khỏi chiếc thuyền đang chống chọ với sóng gió giữa phá. Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi. Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp củ: tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàr bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rõ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông. 8-1982 (Nguyễn Minh Châu, Toàn tập, tập 3, NXB Văn học, Hà Nội, 2001, z4 ======= PAGE 26 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? SAU KHI ĐỌC I. Tìm hiểu về tác giả - tác phẩm Nguyễn Minh Châu sinh năm 1976 tại Quỳnh Lưu, Nghệ An, là một nhà văn có ảnh hưởng quan trọng đổi với nền văn học Việt Nam giai đoạn chiến tranh và thời kì đầu của đổi mới. Trước năm 1975: Ông là một nhà văn khoác màu áo lính, thường viết về đời lính, về hình tượng những người lính trong chiến trận, thể hiện chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu một cách chân thực sự, sâu sắc với các tác phẩm mang thiên hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Sau năm 1975: Chiến tranh đã qua đi, tưởng chừng nhân dân sẽ sống ấm no, đủ đầy, yên bình vì vấn đề lớn nhất của đất nước đã không còn nữa; nhưng nhà văn nhận ra nhiều vấn đề nhân sinh thường nhật khác sẽ xảy đến, vì thế ông hướng ngòi bút về những vấn đề đạo đức, mang tính triết lý sâu sắc; trở thành một “cây bú thế sự” với nhiều truyện ngắn để lại những suy tư, chiêm nghiệm trong lòng độc giả. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn được sáng tác vào năm 1983 - 08 năm sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nằm trong xu thế chung của văn hóa ~ nghệ thuật thời kì này: khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường. Theo chân một người nghệ sĩ đi tìm khoảnh khắc để đời của nghệ thuật, tác phẩm đã đưa ra quan niệm sáng tác sâu sắc của nhà văn về sứ mệnh của người nghệ sĩ chân chính cũng như về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. II. Câu hỏi gợi mở tư đuy và năng lực cảm thụ Câu 1: Câu chuyện được kể từ điểm nhìn của ai? Ý nghĩa của việc lựa chọn điểm nhìn này. " Câu 2: Tìm nguyên nhân dẫn tới tình trạng bạo lực của gia đình hàng chài. Theo.em, tại SaO người đàn bà vẫn chấp nhận sống chung với một gã đàn ông vũ phu, bạo hành chính mình? "\ 4 " ======= PAGE 27 ======= 2% Câu 3: Phân tích sự biến đổi trong góc nhìn của Phùng qua hai tình huống nhận thức. Câu 4: Có ý kiến cho rằng: “Thằng bé Phác đáng thương hơn đáng trách”. Em có đồng ý với ý kiến đó hay không? Tại sao? Câu 5: Anh/chị cảm nhận thế nào về ấn tượng lạ lùng của Phùng về bức ảnh ở cuối câu chuyện? Câu 6: Hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích chức năng nhận thức của văr học sau khi đọc truyện ngắn trên. Câu 7: Qua tác phẩm, anh/chị hiểu thế nào về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Người nghệ sĩ có sứ mệnh như thế nào trên chặng đường sáng tác của mình? KIM 1N TÀI LIỆU HHÓA HỌC HAY MIỄN PHÍ ======= PAGE 28 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? VĂN BẢN 2 NGƯỜI ĐÀN BÀ NGỒI ĐAN Ý Nhi TRƯỚC KHI ĐỌC a. Theo em, đan len là một nghệ thuật đòi hỏi con người yếu tố gì? b. Nhan đề của tác phẩm đã khơi gợi trong em những hình dung như thế nào về nhân vật trữ tình trong thơ? ĐỌC VĂN BẢN Giữa chiều lạnh Không một lần nào chị ngẩng nhìn lên Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ Chị đang qua những phút giâu trước lần Vẻ uừa nhẫn nại pừa uội 0ã gặp mặt Nhẫn nại như thể đó là uiệc phải làm suốt Hay sau buổi chía lụ đời Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan Vội uã như thể đó là lần sau chót hay nỗi lo âu Trong đôi mắt kia là chắn chường ha hụ Không thở dài Đọng Không mim cười Chị đang giữ kín đau thương Giữa chiều lạnh Hay là hạnh phúc Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ Lòng chị đang tràn đầu niềm tín Dưới chân chị Hay là ngờ 0ực Cuộn len như quả cầu xanh Đang lăn những 0òng chậm rã 1-1984 (Văn chương một thời để nhớ (Thơ), NXB Văn học, 2006) ======= PAGE 29 ======= SAU KHI ĐỌC 1. Tìm hiểu về tác giả - tác phẩm Ý Nhi sinh năm 1944, là một trong những nhà thơ hiện đại nổi tiếng của Việt Nam. Cùng với Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Ý Nhi thuộc thế hệ thi sĩ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhưng chỉ thực sự gây được ấn tượng với công chúng sau chiến tranh với những cách tân hiện đại. Với ngôn ngữ giản dị, giọng thơ trầm lắng, giàu chất suy tư, chiêm nghiệm, các áng thơ của bà là nỗ lực kí thác tâm tư của một trái tim không thôi khắc khoải trên chặng hành trình đi kiếm tìm ý nghĩa của cuộc đời. Ý Nhi không đi theo lối làm thơ “ồn ào, kể lể, dàn trải tâm nh” của một thời mà “rũ bỏ ảo tưởng lãng mạn” để tạo nên một phong cách biểu hiện riêng, có ảnh hưởng tích cực đến một số nhà thơ trẻ khác cùng thời. “Người đàn bà ngồi đan” là thi phẩm được trích trong tập thơ cùng tên, sáng, tác vào tháng 1/1984. Với tác phẩm Người đàn bà ngồi đan, Ý Nhi đã giành được Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1985. Đây là một tác phẩm tiêu biểu cho thi ca thời kì Đổi mới vì nó không chủ yếu giãi bày, không tuyên ngôn hô hào, không một chiều cảm xúc mà hóa giải những trạng thái tình cảm đối nghịch: nhẫn nại và vội vã, đau thương và hạnh phúc, tin tưởng và ngờ vực, hân hoan và lo âu, chán chường và hy vọng. ~_~>>>—>— II. Câu hỏi gợi mở tư duy và năng lực cảm thụ Câu 1: Bài thơ được viết theo thể thơ nào? Việc lựa chọn thể thơ này có tác dụng gì đ với việc thể cảm xúc của chủ thể trữ tình? Câu 2: Người đàn bà ngồi đan hiện lên trong không gian và thời gian như thế nào? Câu 3: Tìm những tính từ miêu tả tâm trạng của người đàn bà ngồi đan; từ đó, nhận x về nghệ thuật khắc họa nhân vật trong thơ của Ý Nhi. Câu 4: Người đàn bà ngồi đan “Không thở đài”/ Không mim cười”/ “Không một É nào ngâng lên nhìn”. Theo em, giữa những cái “không” đó thì người đàn bà ngồi đan “£€ điềug? - Câu 5: Nếu kể cả nhan đề của tác phẩm, hình ảnh “Người đàn bà ngồi đạn” được È ======= PAGE 30 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? lại tới ba lần. Theo em, tác dụng của nghệ thuật này là gì? Câu 6: Chức năng của văn học được thể hiện như thế nào qua bài thơ trên? Câu 7: Em hãy viết đoạn văn khoảng 10 - 15 dòng so sánh hình tượng người đàn bà ngồi đan trong bài thơ trên với hình tượng người phụ nữ trong một tác phẩm khác mà em biết. C. TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH 1. Kiến thức chung: Giữ gìn và phát triển tiếng Việt Trong đời sống thực tế, em đã từng chứng kiến một cách sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt nào khiến bản thân em không thể chấp nhận? Vì sao em không thể chấp nhận cách sử dụng đó? 1. Vấn đề giữ gìn uà phát triển tiếng Việt trong thời đại ngày na Tiếng Việt là một mảnh ghép quan trọng tạo nên điện mạo văn hoá Việt Nam trong suốt quá trình hình thành và phát triển đất nước. Ngày nay, sự thâm nhập của những ngôn ngữ mới vào ngôn ngữ dân tộc đã đặt ra cho chúng ta những trách nhiệm trong việc giữ gìn vẻ đẹp trong sáng của tiếng Việt, đồng thời quảng bá và phát triển tiếng mẹ đẻ trong sự giao lưu văn hoá thế giới. 2. Cách giữ gìn uà phát triển tiếng Việt Để giữ gìn và phát triển tiếng Việt, chúng ta cần nói và viết đúng chuẩn mực về phát âm, chính tả, ngữ pháp,... Việc vi phạm những quy định ấy sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến giao tiếp, làm tổn hại sự chặt chẽ, tỉnh tế của ngôn ngữ. Trong những văn bản đòi hỏi ngôn ngữ phải có tính chuẩn mực như bài tập luyện viết, đơn kiến nghị, biên bản họp lớp,... những “kiểu” viết sau là khó chấp nhận: s Các bạn có thể modify theo quan điểm của mình (lạm dụng từ vay mượn) s_ Qua việc tìm hiểu đã cho thấy tầm quan trọng của việc đầu tư tri thức cho bản thân (dùng câu sai ngữ pháp),... Những kiểu viết lệch chuẩn chính tả như øk ck (vợ chồng), eb (em),... hay những từ ngữ mượn tiếng nước ngoài như troll (đùa cợt), “chi” (thả lỏng, thả trôi)... chỉ có thể sử dụng trong một số ngữ cảnh thân mật, gần gũi nhằm tạo nét riêng cho lời nói hoặc chỉ để bông đùa, vui vẻ. Việc giữ gìn và phát triển tiếng Việt còn được thể hiện qua việc sử dụng ngôn ngữ đúng ngữ cảnh giao tiếp, chẳng hạn, không sử dụng ngôn từ suồng sã, có sự chêm xen nhiều 2 ======= PAGE 31 ======= ngôn ngữ khác trong hoàn cảnh giao tiếp đòi hỏi sự nghiêm túc, trang trọng, lịch sự, đặc biệt cần tránh nói thô tục, thiếu văn hoá. Những quy định tạo nên chuẩn ngôn ngữ không phải là bất biến. Bởi ngôn ngữ luôn luôn có sự vận động, cho dù ở những thời kì khác nhau có thể diễn ra nhanh hay chậm, có thể diễn ra theo chiều hướng này hay chiều hướng khác. Chính vì vậy, giữ gìn tiếng Việt không phải chỉ là bảo tồn những giá trị đã có mà còn cân sáng tạo, đổi mới ngôn ngữ; miễn là cái mới phù hợp với những quy định chung nhằm giúp tiếng Việt ngày càng có sự biểu đạt phong phú, đa đạng trong thời kì hội nhập toàn cầu. Thông qua hoạt động sáng tạo nghệ thuật đặc thù, các nhà văn, nhà thơ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giá trị của ngôn ngữ. Đó là hệ thống ngôn từ không chỉ đúng mà còn hay, hấp dẫn, từ đó góp phần giữ gìn và phát triển vẻ đẹp của tiếng nói dân tộc. Nhắc tới tình yêu và sự sáng tạo không biên giới trong chặng đường khai thác chất liệu ngôn ngữ tiếng Việt, ta không thể bỏ qua “bậc thầu trong oiệc sáng tạo 0à sử dụng tiếng Việt” Nguyễn Tuân. “Ông có một uốn từ uựng cực kì phong phú, một lỗi hành uăn độc đáo, tinh tế uà rất có duyên. Câu uăn của ông dường như chứa đựng mọi âm thanh, sắc màu của cuộc sống, hay nói cách khác là sự hòa quyện của thơ ca, nhạc, họa, Nguyễn Tuân xứng đáng là một bậc thầu của nghệ thuật ngôn từ, một nhà ăn độc đáo tô song.” (Tôn Thảo Miên). “Người thợ kim hoàn của chữ” ấy đã không ngừng nỗ lực chắt lọc những ngôn từ hay trong từng trang văn, để mỗi chữ trên trang giấy đều thực sự là một “hạt ngọc” quý. Bên cạnh đó, ông còn sáng tạo ra những cách biểu đạt mới đây hấp dẫn, độc đáo, mang đậm nét cá tính riêng tư của người sáng tác. Thế nên nhà phê bình Phan Ngọc mới có thể nhận định: “Ngôn ngữ tiếng Việt khi ở trong tay Nguyễn Tuân trở thành yêu ngôn gâu ra cho người đọc một sự say mê gần như ma quái.” Cách nâng rủu, quý trọng và không ngừng đổi mới ngôn ngữ Hếng Việt của văn nhân chính là minh chứng rõ nét cho nỗ lực “giữ gìn uà phát triểi tiếng Việt” mà người đời sau vẫn cần phải học hỏi nghiêm túc. II. Luyện tập Bài 1: Xác định dấu hiệu trong nhan đề bài báo điện tử cho thấy người viết không tuân thủ chuẩn tiếng Việt trong những câu sau: a. Học trò Binz ngẫu hứng free style nhưng netizen muốn “giải cứu” Obito, khẳng định việc có người viết hộ lyrics là có thật! (25/1/2022; kenh14.vn) b. Táo Quân 2022 tung trailer chính thức: Hé lộ hàng loạt câu nói “bắt trend“ siêu hài hước (23/1/2022; hoahoctro.tienphong.vn) 30 ======= PAGE 32 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? c. Lần đấu tiên “thánh Iivestream” Phạm Thoại hé lộ gia cảnh ở quê, netizen từ anti liền quay xe: “Đừng bom hàng người ta nữa...” (3/2/2022; kenh14.vn) d. Karina là thành viên “bất tài” nhất Aespa: Main dancer nhưng nhảy thua Winter, all-rounder chỉ là “danh hão“ do fan nhận định? (25/1/2022; kenh14.vn) t Câu hỏi phụ: Theo em, trong những tình huống như thế nào thì các cách “phá ' x vỡ” chuẩn mực dùng từ ngữ tiếng Việt được chấp nhận?-Các trường hợp trên có ¡ năm trong ngoại lệ đó không? ' Bài 2: Mỗi từ ngữ in đậm trong các câu dưới đây có ý nghña khác nhau. Hãy cho biết các nghĩa của mỗi từ ngữ và suy đoán xem trong những nghĩa đó, nghĩa nào có trước, nghĩa nào có sau và giải thích cơ sở của sự suy đoán: 4. Gâu lái đứt neo, tàu thoát qua rốn bão Anh nguyên lành trở 0ề căn phòng em Bỗng gặp cơn bão nhà không triều, không sóng Chiến hạm đời anh lặng lẽ cẮt neo Chìm.... (“Bão” - Nguyễn Vũ Tiềm) b. Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng (“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm) C. Cô gái nhự chùm họa lặng lễ Nhờ hương thơm nói hộ tình vận. (Anh tô tình anh chẳng biết điều Tồi đã dến uới anh rồi đấu...) 31 ======= PAGE 33 ======= Rồi theo từng hơi thở của anh Hương thơm ấy thấm sâu oào lồng ngực Anh lên đường hương sẽ theo đi khắp Hạ chia tay Ẩ R) li n ` ân chẳng nói điều gì Mà hương thầm thơm mũi bước người di, sau trong bài “Mùa xuân chín”: 32 Trong làn nắng ứng: khói mơ tan, Đôi múi nhà Hanh lấm tẩm uàng. Sột soạt gió trêu tà áo biết, Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang. Sóng cỏ xanh tươi sợn tới trời Bao cô thôn nữ hát trên đồi; - Ngày mai trong đám xuân xanh Ất, Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi... Tiếng ca uất uêo lưng chừng núi, Hồn hển như lời của nước mâu, Thầm thĩ uới ai ngồi dưới trúc, Nghe ra Ú tị uà thơ ngây... Khách xa gặp lúc mùa xuân chín, Làng trí bâng khuâng sực nhớ làng: - “Chị ấy, năm nay còn gánh thúc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?” (“Hương thầm” - Phan Thị Thanh Nhàn) Bài 3: Phân tích từ ngữ được sử dụng theo cách rất riêng của Hàn Mặc Tử ở đoạn thơ ======= PAGE 34 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? D. VIẾT VIẾT BÀI PHÁT BIỂU TRONG LỄ PHÁT ĐỘNG MỘT PHONG TRÀO HOẶC MỘT SỰ KIỆN Xà HỘI 1. Trí thức về kiểu bài Bài phát biểu trong lễ phát động một phong trào hoặc một sự kiện xã hội là kiểu bài nghị luận viết ra để đọc trong lễ phát động một phong trào/hoạt động xã hội nhằm mục đích thuyết phục, kêu gọi mọi người tích cực tham gia, góp phân lan tỏa ý nghĩa, thông điệp tích cực. Yêu cầu về kiểu bài (Yêu cầu về kiểu bài được biên soạn theo quan điểm của bộ sách “Kết nối tri thức”) ©- Giới thiệu được phong trào hoặc hoạt động xã hội mà người viết muốn hưởng ứng hoặc phát động và nói rõ tầm quan trọng, tính cấp bách của nó; có cách mở đầu thu hút sự chú ý của người đọc. «_ Triển khai hệ thống luận điểm chặt chẽ; sử dụng lí lẽ và bằng chứng thuyết phục; giúp người tiếp nhận hiểu rõ lí do người viết hưởng ứng hoặc phát động phong trào hoặc hoạt động xã hội. s_ Nêu được ý kiến trái chiều có thể có và sử dụng lí lẽ, bằng chứng phản bác để tăng tính thuyết phục cho văn bản. ©_ Sử dụng hiệu quả các yếu tố thuyết minh và biểu cảm để tăng thêm sức phát động cho bài phát biểu. » - Có kết bài gây ấn tượng, thuyết phục người đọc thay đổi nhận thức hoặc hành động. 2. Đọc ngữ liệu tham khảo và trả lời câu hỏi “SPEAK YOURSELE” - BÀI PHÁT BIỂU ẤN TƯỢNG CỦA RM TẠI LIÊN HỢP QUỐC “Xin cảm ơn. Thưa Ngài Tổng Thư ký, Thưa Giám đốc điều hành UNICEE và tất cả các vị khách quý đến từ khắp nơi trên thế giới. Tên tôi là Kim Namjoon, còn được biết đến là RM - trưởng nhóm của BTS. Chúng tôi vô cùng vinh dự khi được mời đến dự sự kiện quan trọng đối với thế hệ trẻ ngày nay. Tháng 11 năm ngoái, BTS đã khởi động chiến dịch Loue Mụself (Yêu thương chỉnh mình) cùng UNICEE, dựa trên lòng tin của chúng tôi rằng Tình yêu đích thực trước hết là bắt đầu từ việc yêu quý chính bản thân mình. Chúng tôi đồng hành cùng UNICEFrong chiến dịch END iolence (Chấm dứt bạo lực) để bào vệ trẻ em và những người trẻ trên khắp thế giới khỏi: : Ẻ ' ` M ======= PAGE 35 ======= bạo lực. Và fan của chúng tôi đã trở thành một phần quan trọng trong chiến dịch này nhờ những hành động và lòng nhiệt huyết của họ. Chúng tôi thật sự có những người hâm mộ tuyệt vời nhất thế giới. Tôi muốn bắt đầu bằng việc chia sẻ về bản thân mình. Tôi sinh ra ở Ilsan, một thành phố gần Seoul, Hàn Quốc. Đó là một nơi tuyệt đẹp, với hồ nước, những ngọn đồi và thậm chí là lễ hội hoa hàng năm. Tôi đã trải qua tuổi thơ hạnh phúc ở đó và tôi chỉ là một cậu bé bình thường. Tôi đã từng ngắm nhìn bầu trời đêm và mơ những giấc mơ của một cậu bé. Tôi đã từng tưởng tượng mình là một siêu anh hùng giải cứu thế giới. Trong bài intro (bài mở đầu) của một trong những album đầu tiên của chúng tôi có câu hát: Trái tim tôi đã ngừng đập khi tôi lên 9 hay 10. Nghĩ lại thì đó là lúc tôi bắt đầu lo lắng người khác nghữ gì về tôi và tôi bắt đầu nhìn nhận bản thân mình qua con mắt của họ. Tôi không ngắm nhìn bầu trời đêm và những ngôi sao nữa. Tôi cũng ngừng mơ mộng. Thay vào đó, tôi cố gắng ép mình vào khuôn mẫu mà người khác dựng nên. Chẳng mấy chốc, tôi đã im lặng và bắt đầu lắng nghe tiếng nói của người khác. Không còn ai gọi tên tôi và chính tôi cũng vậy. Trái tim tôi ngừng đập và đôi mắt tôi nhắm nghiền lại. Vì vậy, nếu cứ tiếp tục như thế, tôi, chúng ta, tất cả sẽ đánh mất chính mình. Chúng ta đều trở thành những bóng ma. Tôi có một thánh địa và đó chính là âm nhạc. Có một giọng nói nhỏ trong tôi khẽ nói rằng: “Tỉnh đậy đi chàng trai, hãy lắng nghe chính bản thân mình”. Nhưng tôi đã mất một khoảng thời gian khá dài nghe được âm nhạc gọi tên tôi. Ngay cả sau khi gia nhập BTS thì vẫn còn vô vàn trở ngại. Có thể nhiều người không tin nhưng hầu hết mọi người đều nghĩ rằng chúng tôi vô vọng thật rồi. Đôi khi, tôi chỉ muốn từ bỏ. Nhưng tôi nghĩ thật may vì tôi đã không từ bỏ. Tôi chắc chắn rằng tôi và chúng ta sẽ có thể tiếp tục chật vật và vấp ngã như vậy. BTS giờ đây đã trở thành nghệ sĩ biểu diễn tại các sân vận động lớn và bán hàng triệu bản album. Nhưng tôi vẫn chủ là một chàng trai 24 tuổi bình thường mà thôi. Nếu có bất kỳ điều øì tôi gặt hái được, thì đó chỉ có thể là vì tôi có các thành viên của BTS luôn kề vai sát cánh bên tôi, và vì tình yêu và sự ủng hộ mà các A.R.M.Y, fan của chúng tôi trên toàn thế giới đã dành cho chúng tôi. Có thể hôm qua tôi đã phạm sai lầm, nhưng tôi của hôm qua vẫn là tôi. Hôm nay, tôi vẫn là chính tôi với tất cả những lỗi lầm mà tôi đã từng mắc phải. Ngày mai, tôi có thể chín chắn hơn một chút, và đó cũng vẫn là tôi. Những lỗi lâm và khiếm khuyết này chính là bản thân tôi, tạo nên những tỉnh tú rạng rỡ nhất trong chòm sao chiếu mệnh của cuộc đời tôi. Tôi yêu thương con người của chính tôi hôm nay, yêu thương cả tôi trong quá khứ và cả con người mà tôi hy vọng tôi có thể trở thành trong tương lai. Tôi muốn nói một ý cuối cùng rằng sau khi phát hành album Loue YowrseÏŸ và phát động chiến dịch Loue Muselý chúng tôi bắt đầu nghe được những câu chuyện ấn tượng từ các fan 34 h ======= PAGE 36 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiều? trên thể giới, nghe về cách mà thông điệp của chúng tôi đã giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống và bắt đầu yêu thương bản thân mình. Những câu chuyện này luôn nhắc nhở chúng tôi về trách nhiệm của mình. Vì vậy, hãy cùng chúng tôi tiến thêm một bước nữa. Chúng ta đã học được cách yêu thương chính bản thân mình nên bây giờ, tôi thúc giục các bạn hãy tự cất lên tiếng nói của chính mình. Tôi muốn hỏi tất cả các bạn: Tên của bạn là gì? Điều gì khiến bạn phấn khích và khiến trái tim của bạn rung từng nhịp đập? Hãy kể tôi nghe câu chuyện của bạn. Tôi muốn.nghe giọng nói của bạn và những lời thành thật của bạn. Cho dù bạn là ai, bạn đến từ đâu, màu đa, bản đạng giới của bạn là gì, hãy nói lên tiếng nói của chính bạn. Tìm ra tên của bạn, tìm ra giọng nói của bạn bằng cách cất lên tiếng nói của chính bản thân bạn. Tôi là Kim Namjoon, và cũng là RM của BTS. Tôi là một thần tượng và là một nghệ sĩ đến từ một thành phố nhỏ ở Hàn Quốc. Giống như hầu hết mọi người, tôi đã phạm nhiều sai lầm trong cuộc đời mình. Tôi có nhiều lỗi lầm và tôi càng có nhiều hơn những nỗi sợ nhưng tôi sẽ học cách chấp nhận bản thân mình nhiều nhất có thể, và tôi sẽ bắt đầu tập yêu thương chính mình từng chút, từng chút một. Tên của bạn là gì? Hãy tự cất lên tiếng nói của chính bạn!” (Nguồn: Go Global Vietnam) Thực hiện yêu cầu sau: Câu 1: Bài phát biểu được viết nhằm mục đích gì? Để đạt được mục đích đó, tác giả đã đưa ra luận điểm, lí lẽ và bằng chứng như thế nào? Câu 2: Xác định đối tượng mà bài phát biểu hướng đến. Ngôn ngữ trong bài phát biểu có phù hợp với đối tượng này không? Vì sao? Câu 3: Xác định một số yếu tố biểu cảm được thể hiện trong bài phát biểu trên và nêu tác dụng của các yếu tố đó? Câu 4: Theo em, lời kêu gọi của tác giả có thể nhận được sự hưởng ứng rộng khắp không? Nếu có thì sự ảnh hưởng đó do đầu mà có? 3. Thực hành viết Với chủ đề “Thiện nguyện 0à sứ mệnh của chúng ta”, anh/chị hãy viết một bài phát biểu để đọc trong buổi phát động phong trào năm nay. Hướng dẫn thực hiện: 3.1. Chuẩn bị viết e_ Xác định đề tài, mục đích, đối tượng người đọc để chọn cách viết cho phù hợp. s _ Thu thập tư liệu liên quan đến chủ đề “Thiện nguyện và sử mệnh của chúng ta” và 35 ======= PAGE 37 ======= lập bảng thống kê tư liệu. 3.2. Tìm ý và lập dàn ý Các em có thể khơi mở tư duy bằng cách đặt ra những câu hỏi xoay quanh chủ đề. Gợi ý tham khảo: e_ Chủ đề “Thiện nguyện và sứ mệnh của chúng ta” được phát động nhằm mục đích gì? Quá trình hình thành và phát triển của phong trào có gì đáng chú ý? s - Vì sao cần tham gia “Thiện nguyện và sứ mệnh của chúng ta”? © - Bạn có những kinh nghiệm gì khi tham gia phong trào này? ©_ Cần làm gì để tham gia phong trào một cách tích cực, hiệu quả? 3.3. Viết bài Từ dàn ý cá nhân, em triển khai viết bài hoàn chỉnh. Khi viết cần lưu ý sử dụng ngôn ngữ trang trọng, khách quan, sử dụng đại từ xưng hô phù hợp với đối tượng mà bài viết hướng đến, giọng điệu chân thành, nhã nhặn, kết hợp với yếu tố thuyết minh và biểu cảm một cách hợp lí. 3.4. Xem lại và chỉnh sửa Sau khi viết xong, hãy đọc lại bài phát biểu của mình và chỉnh sửa. Đây là thói quen cần thiết dù em luyện viết đề dạng nào, hay kế cả với các bài viết đăng tải trên mạng xã hội cá nhân. Khi bản thân luôn chỉn chu, cẩn thận với những chữ mình viết, nghĩa là em ý thức được từng con chữ ấy sẽ đại diện phát ngôn cho mình; không thể nào vội vàng, cẩu thả. Cụ thể, với bài viết này: s _ Rà soát cấu trúc và nội dung chung của văn bản, đảm bảo bài viết có đủ ba phần, mỗi phần đều được triển khai đáp ứng yêu cầu đã được nêu trong dàn ý và trong phần viết bài. « Kiểm tra hệ thống lí lẽ, bằng chứng để đáp ứng yêu cầu chính xác, tin cậy, thích hợp, đầy đủ. «- Rà soát lỗi chính tả, dùng từ ngữ, đặt câu; lỗi về mạch lạc và liên kết trong mỗi đoạn văn và giữa các đoạn văn. ©_ Cô gợi ý: Em có thể thử đọc thành tiếng bài viết của mình để cảm nhận được rõ hơn sức mạnh truyền đạt của nó. Khi đọc thành tiếng, các lỗi trong diễn đạt cũng có thể hiện lên một cách rõ ràng hơn để em chỉnh sửa và trau chuốt lại thêm một lần nữa. Ngoài ra, vì đây là bài phát biểu, viết để nói trước một tập thể, nên việc em luyện tập đọc bài viết lên sẽ càng hợp lý hơn nữa. 36 ======= PAGE 38 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? E. LUYỆN TẬP I. Đọc văn bản, trả lời cầu hỏi MIỀN CỎ HOANG Trần Thanh Hà Trong vườn, có một khoảnh nhỏ bà trồng đủ các thứ rau: chân vịt, mã đề, diếp cá, cả rau đền đất. Bà dùng thân lau nẹp thành liếp, ken dày đến nỗi gà con cũng không chưi vào được. Suốt ngày bà ở ngoài đám đất, cuốc xới, nhặt cỏ, ươm cây. Bà bảo các thứ này đừng nghĩ nó đại, thuốc nam hết cả. Mùa hè bà luộc rau sam, rau chân vịt “ăn cho nó mát”, nhưng đến bữa cả nhà ăn hết góc đĩa, bởi nó cứ nhơn nhớt, nhàn nhạt thế nào ấy. Hơi nóng sốt một tí, là y như rằng bà nhai diếp cá bắt đắp lên trán, hôi ơi là hôi. Chỉ bữa nào có cua đồng, mẹ nhổ rau đền nấu canh, cô Sửu mới khen ngon. Ngày cô Sửu đám cưới, đám thanh niên làng hè nhau đạp gãy cái hàng rào của bà để vào xem cái viđeo bố đem từ trên huyện về chiếu bộ phim đánh chém nhau của Hồng Kông. Sáng sau ra vườn, thấy đất bị giẫm đạp vô số dấu giày, rau cỏ nát bét lẫn với đầu mẩu thuốc lá, bà xót ruột, chửi um, đến nỗi mẹ phải gắt bà mới thôi. Chiều lại đã thấy bà mang cuốc chét ra cuốc xới. Chú Thao từ bên kia đồi vác sang mấy bó rau, lụi hụi trồng lại cái liếp rào cho bà. Bố cằn nhằn: Không có việc bà nghỉ cho khỏe, việc gì phải đất với cỏ”. Bà thở đài, dặn nhỏ: “Nhớ đái vào cái máng sau nhà cho bà để bà tưới cây”. x*% Lối dẫn ra nhà chú Thao băng qua một vạt đồi cỏ léc! cao quá đầu người. Men bờ khe có hơi nước, léc xanh m tùm, lá to và dài, trông rợn cả người. Trong rừng không có loại cây nào lá sắc như cây léc, chỉ cần vương nhẹ, nghe đau, y như rằng là léc cắt. Thế nhưng chú Thao không phát đường, cứ đạp léc xuống mà đi, thân léc gãy khô cong rẽ ra hai bên tạo cho lối đi hình cái máng vòm. Mùa khô, những người đi bứt lá về bỏ chuồng hay đi qua lối nhà chú Thao; nhưng hễ mưa xuống trên phiên léc thỉnh thoảng có vắt, sên, nên con đường hầu như bỏ hoang. Lâu ngày từ những gốc léc gãy, những mầm léc non lá tươi và mềm vươn lên vẫy vẫy. Chú Thao là người trở về cuối cùng của xóm. Ngày chú ôm chiếc túi lép bước vào cổng nhà, thím Hồng đã hai mặt con, ở với chồng bên chợ, cách sông và một thôi đường. Bà ôm lấy chú mà khóc, mà kể lẽ thôi là kể lể. Mẹ và cô Sửu khóc thút thít. Chú đứng trước bàn À lé z z ...ˆ ˆ _ ĐÓ _ ˆ 1, Có léc: Cách nói trại của từ “có lách”. Lách là một loại cây thân mềm, cao hơn cảy lau, thường mọc ở vùng bán Sơn địa, có nhiều đồi núi, Lách mọc rậm rạp và um tùm; đặc biệt lá lách thon dài và rất sắc cạnh. l ⁄2⁄: ử: 2; ⁄ c , ¬ mờ “.. l/ANG 0g. +“ #2 ch v4 ======= PAGE 39 ======= thờ mình, chẳng nói gì, cơ má trái giật giật. Mặt chú trông chẳng giống mặt người trong ảnh, phía hay giật giật đen một mảng và đầy sẹo nhỏ. Bà nhắn qua chợ cho thím Hồng. Thím về có một mình, mắt đỏ hoe. Vừa thấy chú Thao thím liền sụp xuống lạy. Cơ má trái của chú càng giật mạnh hơn. Chú bảo: “Sự thể đã thế, đừng nghĩ ngợi gì. Cố mà sống vuông tròn với người ta”. Thím Hồng về, rồi lâu không thấy sang nữa. Ở nhà được ít lâu, chú Thao làm cái nhà bây giờ. Căn nhà lúc mới dựng nằm chỏn lỏn giữa bạt ngàn cỏ léc, đứng xa không trông thấy. Chú Thao cặm cụi cuốc đất trồng khoai, trồng sắn. Đất tốt, chả mấy chốc vườn chú đã có cái để thu hoạch. Bây giờ, những cây xoài, cây mãng cầu đã lớn nhanh vượt lên khỏi ngọn léc. Nghe đâu chú còn định xin xã cho khai phá mấy vạt đồi phía sau để trồng bạch đàn nhưng xã không cho. Ông Bính chủ tịch nói là đất ấy nhiều bom đạn đụng vào lỡ xảy ra chết chóc, không ai chịu trách nhiệm. Chú gặp bố nhờ nói hộ. Bố bảo: “Không đễ”. Chú nhắc lại: “Vâng, không dễ” rồi về. Những chiều muộn chăn trâu bên này đồi nghe vắng từ bên kia tiếng sáo đặt đìu nôn nao. Tiếng sáo phảng phất trong sương khói chiều nghe có cái gì quần quặn trong lòng. Cả rừng léc rập rờn theo tiếng sáo. Lũ chăn trâu đứng ngẩn quên cả ngày đang tắt, quên cả đói và lạnh. Dứt tiếng sáo chúng mới lục tặc lùa trâu về, thầm thì kháo nhau: “Ông Thao trông mặt sợ thế mà thổi sáo hay đáo để, nhỉ“. Bà kể, ngày con gái thím Hồng xinh nhất làng Thượng, nhà đã gả chồng rồi vẫn nhất quyết chối chỉ bởi mê tiếng sáo chú Thao. Đêm văn nghệ nào có chú thổi sáo, thanh nữ đứng xem đông nghịt, hết thảy đều ngây ngất. Tiếng sáo như có bùa quyến rũ hết con gái làng, đến nỗi trai làng có bận đọa bẻ hết ống sáo chú Thao, cấm chú thổi. “Ấy vậy mà bây giờ...”. Nói thế, bà lại khóc. Mỗi lần nghe bà khóc, cô Sửu nhăn mặt: “Ai người ta cũng biết, mẹ kể mà làm gì”. Quãng gần Tết mấy cây chanh ghép trong vườn chú Thao trổ bói?. Giữa một vùng chỉ cỏ là cỏ, hương chanh đâm ngào ngạt, tỉnh khiết. Ong rừng nương theo mùi hương rủ nhau bay về, rập rờn trên những vầng hoa trắng. Chú Thao ngồi hàng buổi trầm ngâm, mắt vời vợi mông lung trông ra bạt ngàn ngọn léc uốn cong theo gió, cơ má trái giật giật. Từ độ hoa chanh vườn chú Thao nở, cô Sửu thỉnh thoảng sai: “Mày chạy vào nhà ông Thao kiếm ít hoa về gội đầu”. Cô đâm nghiền thứ nước bồ kết nấu thả vài cánh chanh trắng, hương thoang thoảng, thanh và cay, gội xong nhiều ngày mà hương còn ủ trong tóc. Hoa chanh nở có kỳ, nhưng cô Sửu bao giờ cũng có để gội đầu là nhờ chú Thao nhặt hoa rụng, hong khô, cất kỹ, mỗi bận lại cho cô Sửu một ít. Cô Sửu có lần đùa: “Vì mấy cây 2. Trổ bói: lần ra quả đầu tiền của cây kể từ khi được trồng. 38 ======= PAGE 40 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? chanh nhà ông Thao mà tao lấy được chồng”. Cô hếch mặt: “Còn mày, đến thời không bù giá bằng hoa chanh được. Bảo bố mày sắm cho ít vòng xuyến...”. Cô Sưu vốn không đẹp, da đen, vóc người to ngang, ăn nói đốp chát. Học xong trung cấp nông nghiệp, về xã làm kỹ thuật viên, cũng chân lấm tay bùn như ai, nhưng hễ trai làng buông lời tán tỉnh là cô bĩu môi ra chiều coi thường, Cô nói cô thích người trình độ. Ngoài ba mươi, cô còn ở vậy. Ấy thế nên cô nhận lời lấy anh kỹ sư cùng cơ quan bố. Bà cũng thường hay sai mang những thức rau trong vườn cho chú Thao. Mỗi lần bà sai đi bà lại đem chuyện chú Thao hồi chưa đi bộ đội ra kế, nào là chú Thao tát cá về bắt bà nấu canh rau tập tàng ra sao, nào là chuyện chú Thao cuốc đất khỏe như thế nào. Thôi thì đủ chuyện, dài có khí hết buổi, làm mẹ phải nhắc khẽ: “Chạy ù đi rồi về học bài”. Chú Thao ít qua nhà nhưng hế qua là thế nào chú cũng mang cho chục trứng, miếng thịt nhím, thịt chồn bẫy được ngồi với bà một chốc, nói dăm ba câu là đi ngay. Có lần cô Sửu bảo: “Hay anh lấy vợ đi. Đã già đâu. Em sẽ mối cho anh con bạn học...”. Không chờ cô Sửu nói hết, chú Thao trừng mắt làm cô ấn gãy thỏi son đang tô môi đở, xịu mặt. Chú Thao đi rồi cô mới toang toang: “Dở hơi, ông Thao ông ấy dở hơi. Thời này đàn bà rẫy ra, khối đứa thèm đàn ông không ai để mắt. Ông Thao có hơi bị cháy mặt một chút nhưng cứ là đàn ông. Có vợ, có chồng cứ hơn thui thủi một mình. Biết toan tính, chăm chỉ như ông ấy, chả mấy chốc mà giàu. Hay còn chung thủy với bà Hồng? Bà ấy đã là vợ người ta, còn thương tiếc nỗi gì nữa không biết...”. Bố gắt: “Biết thì nói, không thì đừng. Cô là hay nói liều”. Cô Sửu đùng đùng: “Thấy phải là tôi nói chứ! Ông làm như ông thương ông Thao lắm không bằng. Thương sao để ông ấy ra ở rừng một mình? Sao không chạy cho ông ấy cái giấy thương tật? Mà ông chỉ bảo với xã một tiếng là người ta cho ông Thao thầu cái đồi léc, thế mà không. Để cho cỏ nó mọc bạt ngàn, người ta muốn làm kinh tế lại không cho”. “Đã bảo lắm bom...”. “Bom cái gì? Ông không phải sợ cho cái tính mạng của ông Thao, ông sợ cái khác. Đạo đức giả tuốt!”. “Cô đừng có hồ đồ. Im đi cho tôi nhờ!”. Bố bực bội. Cô Sửu không im, cô xia xói: “Ông đừng ÿ mà quát tôi nhé! Ông bắt ai im được chứ tôi thì đừng hòng. Tôi biết tỏng trăm ngàn chuyện xấu xa của ông. Tôi biết cả cái giấy gọi nhập ngũ là đề tên ông, nhưng vì ông sắp đi nước ngoài nên phải cậy cục lo cho ông Thao đi ngay. Có ông Thao gánh hết thiệt thòi ông mới thành ông này ông nọ. Ấy thế mà giá ông Thao chết đi có khí ông lại đễ chịu hơn là thấy ông ấy lù tù dẫn xác trở về...“. “Mày, mày, mày... “ bố lắp bắp, mặt đỏ ngầu. Cô Sửu ngoảnh mặt bỏ đi. Bà rên rẩm: “Vô phước, tao vô phước...”. Mẹ lặng im, cắn môi ngồi một mình trong bưồng. Bố nổ máy xe phóng ra huyện dù chưa hết ngày chủ nhật. ... 39 ======= PAGE 41 ======= Cô Sửu lấy chồng chưa đầy năm thì tay xách nách mang về nhà. Mẹ kéo cô vào buông, mặt tái nhợt: “Làm sao thế hả?”. Cô Sửu khóc, nói trong lời nước mắt: “Em dại. Đã trót ở đến chừng ấy thế mà không ở luôn, lấy chồng làm gì cho nó nhục...”. Mẹ đảo mắt chưng quanh, hoảng sợ: “Thì nho nhỏ thôi! Có gì cô nói đi nào”. Cô Sửu quệt nước mắt: “Cái số em nó khổ. Ngót ba chục tuổi đầu ai cũng cười ế ẩm, lấy chồng trình độ, ăn trắng mặc trơn thiên hạ tưởng sung sướng. Nào ngờ vớ phải thằng cha bất lực. Biết em có bầu, nó đánh chửi em thậm tệ...”. “Trời ơi là trời” - mẹ bưng mặt. “Tôi bỏ chồng. Ai nói gì thì nói” - cô Sứu tuyên bố khi có đủ mặt cả nhà. Bà tru tréo, bà bảo rằng chính cô làm nhục gia phong, rằng cô bôi tro trát trấu vào mặt bà. Bà khóc, bà chửi ầm nhà cửa. Bố im lặng hút thuốc, mãi sau mới nói: “Chuyện xấu, chẳng biết giấu đi, cứ vạch áo cho người xem lưng. Cái làng này không khéo đến lúc cô Sửu đẻ, họ kéo cả đến xem đứa bé giống ai...”. “Muốn xem tôi cho xem chút tôi sợ gì mà giấu với giếm”. “Hay hớm lắm đấy, cô lên phố mà xem, mấy hôm nay đầu đường xó chợ, đâu cũng thấy tụ tập đàm tiếu chuyện vợ chồng cô. Cô không ngượng nhưng mà tôi ngượng, tôi nhục...”. Cô Sửu cúi nhìn cái bụng sắp sửa vượt mặt lại khóc. Nhà buồn như có đám. x.+.* Tháng chạp thứ hai, hoa chanh vườn chú Thao nở. Cô Sửu đã không còn sai chạy sang chú Thao lấy hoa chanh nữa. Cỏ léc vẫn rập rờn xanh biếc một màu, ngàn ngàn lớp sóng xô đuổi nhau chạy qua, xôn xao, khấp khởi. Heo may thổi lồng lộng buốt lên tận óc. Lại mưa phùn hay đổ vào buổi chiều tối, giăng mắc lên làng mạc một màn sương mờ dày đặc. Bà bây giờ chỉ còn ngồi hong tay trên bếp lửa, hết sáng đến chiều, hết chiều tới tối. Đêm bà ngủ mẹ cũng phải vùi than dưới giường cho bà. Lâu bà không còn nhắc đái vào cái máng sau vườn nữa. Khoảng đất của bà đền đất già nở từng bông hoa xanh xám dài ngoằng ngoằng, chen chúc với lũ cỏ hôi hoa màu hồng hồng, lá phủ một lớp lông mỏng nham nhám. Cái liếp rào mỗi lần gió lay là xiêu vẹo chực ngã. Phần cái cuốc chết, cán gãy mẹ đã cho vào bếp đun, lưỡi sắt hôm qua thẳng cu Ki đã bán cho thằng đồng nát. Con cô Sửu xinh như tranh, chỉ mỗi tội hay đái đâm. Không thấy xóm làng đến xem mặt đứa bé như lời bố, chỉ có ông Bính chủ tịch không con đến nhận thẳng bé nhưng cô Sửu cười bảo: “Tôi đẻ, con tôi, chẳng con ai cả”. Cô đặt thằng bé vào cái nôi buông mùng trắng rồi hát: Cải uc mày ng co ngon, Mai sat mày lớn, tìm cho ra gái ngoan mà hẹn hò... Cô bảo: “Mày trông chừng em cho cô nhé! Cô chạy quàng dí một tí. Lâu ngày nằm ổ, buồn quát “Cô vấn tóc, trùm khăn kín mặt, đi. Quá bữa cô mới về. Từ ngoài ngõ đã nghe 40 ======= PAGE 42 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? tiếng cô oang oang: “Điên, ông Thao nhà này điên mất rồi”. Mẹ tất tả chạy từ dưới bếp lên. Cô Sửu vừa tháo khăn vừa nói: “Đàn bà không chồng làng này thiếu gì. Lấy ai chẳng lấy, lại đi rước mẹ con con mụ Nền. Mang gông suốt đời mà không tránh khỏi miệng thế gian”... À, ra cô Nền về ở với chú Thao. Cô Nền nhà ở gần trường học, không thấy nói có chồng nhưng có ba đứa con. Bọn học trò hay vào nhà cô xin nước uống, lợi dụng bứt trái đu đủ non, dăm quả ổi xanh trốn học chấm muối ớt, có đứa táo tợn còn lấy cắp trứng gà, bồng cả gà mẹ. Cô Nền biết nhưng không chửi, cô khuyên bảo nhẹ nhàng rồi cho về. Được thể bọn trẻ càng làm quá. Cô là đối tượng trong những câu chuyện của đám đàn ông tụ tập khi rỗi rãi. Họ đùa phát vào lưng nhau đôm đốp: “Em Nền ấy à, cứ xuống xề kể lể nỗi bất hạnh là em mềm lòng, cho tuốt...”. Đàn bà khinh nhờn cô ra mặt. Họ bảo cô đĩ thoã, họ bảo cô khốn nạn. Quanh năm suốt tháng, ngoài lũ học trò chẳng có ai tới nhà cô ban ngày ban mặt. Cô Sửu lay gọi bà, than thở chuyện chú Thao. Bà ngồi lặng im hong tay trên bếp, chẳng ra nghe, chẳng ra không. Mắt bà đục mờ như có phủ sương khói. Bà cười, phô hàm lợi trống trơn móm mém. Lâu bà mới hỏi mẹ: “Thế bao giờ đến giỗ thằng Sơ?” Mẹ dại mắt, nhắc khẽ: “Chú ấy còn sống, đã về.” “À thế...”. Mắt bà ánh lên một chút sáng, rất nhỏ, rất mỏng, rồi nguội tắt nhanh chóng, lại chỉ thấy sương khói đục mờ. Mẹ và cô Sửu nhìn nhau, không ai nói. xxx Trong hơi may, trên những triền đồi hoang chỉ còn độc mỗi lũ trẻ chăn trâu. Chúng co ro trong áo tơi, da tái xám giữa lồng lộng gió. Trên muôn triệu lá léc xanh xuyên qua lớp lớp mưa phùn là trong trẻo, là réo rắt, là huyền hoặc tiếng sáo. Chưa bao giờ tiếng sáo nỗi niềm da diết đến thế. Không đứa nào lên tiếng. Chúng nắm chặt tay nhau nhìn về hướng ngôi nhà nhỏ bên kia đồi. Phía đó, một làn khói bếp mỏng bay lên, vẽ một đường cong mềm mại, rồi tỏa tỏa vào trong chiều muộn. (Trích tập truyện “Ơi đò ca củH”, Trần Thanh Hà, NXB Thanh niên) 41 ======= PAGE 43 ======= I. Tìm hiểu về tác giả - tác phẩm Trần Thanh Hà sinh năm 1971 tại Quảng Trị. “Chị miêu tả cuộc sống không bằng những đường nét cụ thể mà thông qua thế giới tâm hồn của con người. Truyện ngắn Trần Thanh Hà đồn chứa, phồng căng tâm trạng. Những mảnh tâm trạng được vắt, ép từ dòng chảy cuộc đời, vắt ép đến tận cùng, cạn kiệt, thành nỗi trầm tư day dứt về những số phận khác nhau của đời người. Các sáng tác đường như chỉ có một loại nhân vật. Liên kết, xếp chồng, lắp ghép từng mảnh đời rời rạc ở từng truyện, nhân vật máu thịt của Trần Thanh Hà hiện ra đầy đặn — đấy là một cái tôi phụ-nữ-buồn. Thấm đẫm trên từng trang viết của chị là nỗi niềm day đứt của những thân phận phụ nữ, khát khao đến đau đớn, quần quại và chịu đựng thầm lặng đến nao lòng.”(Trích Tạp chí Cửa Việt, tapchicuaulet.COT.0n) Miền cỏ hoang là một truyện ngắn được rút từ tập truyện “Ơi đò ca cút!” Đây là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của Trần Thanh Hà, với câu chuyện hậu chiến xoay quanh trong một gia đình - có đứa con người lính trở về, sau tin báo tử, có người vợ không đủ sức thủy chung, có cô con gái làm nhục gia phong, tiếng rên rẩm và những giọt nước mắt của mẹ, có chút tình chắp vá lỡ làng... Chiến tranh và ký ức, chiến tranh và đời thường, chiến tranh và nhân bản - chỉ một truyện ngắn cô đúc từ những khoảnh khắc bất chợt của tâm trạng, Trần Thanh Hà đã đề cập được nhiều vấn đề có ý nghĩa. Trả lời những câu hỏi sau: Câu 1: Truyện ngắn này xoay quanh bao nhiêu sự kiện? Căn cứ vào đâu để xác định như vậy? Câu 2: Theo em, tại sao nhà văn lại xây dựng người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, người xuất hiện trong tư cách là “người cháu” của chú Thao? Giả sử như truyện này được kể tử ngôi thứ ba thì câu chuyện có thay đổi gì đáng kế? Câu 3: Theo em, bi kịch của các nhân vật trong câu chuyện là gì? Câu 4: Nhà văn Trần Thanh Hà từng tâm sự: “Dù iệt tề cái gì đù nhân oật của tôi là ai đàn ông hay đàn bà, người giả hau còn trẻ, Kẻ có quá khứ hoặc tung hê tất cả... đù cuộc đời họ nhủ Tớ tr HH. a z2 Tu _ - ⁄2- : “% ưa x. " ======= PAGE 44 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? thế nào, tì bao giờ đổi uới tôi đấy cũng là một niềm khắc khoải mong mỏi cho con người được sống tốt hơn, nhân hậu hơn, là mình hơn”. Dựa oào những hiểu biết 0ê chức năng của uăn học oà truyện ngắn “Miền có hoang”, em liãy oiêt một đoạn oăn từ 10 - 12 dòng trình bà ý kiến tề nhận định trên. II. Đọc, nghe, xem: Nâng cao cảm thụ Bức tranh “The Milkmaid” của Johannes Vermee (Nguồn ảnh: rijksmuiseum.nl) Bức tranh sơn đầu trên toan này đã truyền cảm hứng tới nhiều người nghệ sĩ về nét đẹp giản dị của một cô hầu gái đang bình lặng rót sữa giữa căn bếp ở Hà Lan vào thế ki XVH, trong số đó có Wislawa Szymborska - nhà thơ đoạt giải Nobel Văn học 1996: “Chừng nào người phụ nữ ở Rijksmiusetn trong im lặng uà chăm chủ trong tranh Hgày qua ngàu còn rót sữa từ bình sang âu thì Thế giới còn chưa xứng đáng đâu uứới ngày tận thế.” (Wislatua Szmborska) 4 ======= PAGE 45 ======= Khi ngắm nhìn bức tranh “The Milkmaid” và bài thơ trên, ta chợt nhận ra rằng có lẽ chừng nào con người ta vẫn còn nhận ra vẻ đẹp tĩnh tại trong một khoảnh khắc giản đơn giữa đời sống như hình ảnh một cô hầu gái rót sữa, thì khi đó nghệ thuật vẫn tồn tại và cần thiết cho nhân loại. Bởi nghệ thuật là mảnh đất bảo vệ những giá trị riêng tư, cá nhân nhất, khác hoàn toàn với cách truyền thông đại chúng chiếm lĩnh đời sống trong guồng quay hối hả hiện nay. Có những trạng thái của thế giới cần đến nghệ thuật mới có thể biểu đạt. Thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật là thực hiện sự giao tiếp giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân với thế giới, giữa thế giới này với thế giới khác (có thể khác về thời gian - không gian). Chẳng hạn xem bức tranh và đọc bài thơ trên, ta như được ngắm nhìn và đối thoại với một thời quá khứ ở một nơi xa xôi, cách trở vô cùng về địa lý. Nhưng nghệ thuật đã kéo gần lại tất cả những khoảng cách tưởng chừng không thể bù đắp ấy. Thông qua quá trình ấy, con người ta sẽ được vun đắp thế giới tỉnh thần trong trạng thái thấm mũ, từ đó cảm nhận và trân quý vẻ đẹp trong từng khoảnh khắc bình đị của cuộc ~ sống. II. Luyện tập viết Câu 1: Sau khi xem bức tranh “The Milkmaid” và đọc bài thơ của Wislawa Szymborska, em hãy viết một bài văn 600 chữ trình bày suy nghĩ của em về giá trị của nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng trong thời đại ngày nay. Câu 2: Hãy viết đoạn văn diễn địch khoảng 200 chữ nêu cảm nhận của em về bức tranh “The Milkmaid”. Câu 3: Sinh ra trong thời đại bùng nổ công nghệ số, giới trẻ ngày nay đang đối mặt với những thuật lợi và thách thức trước sự biến đổi không ngừng của xã hội. Với chuyên đề sinh hoạt theo tuần “Con người - Trí tuệ nhân tạo - Tương lai”, em hãy viết một bài phát biểu để khích lệ các bạn học sinh tìm ra phương hướng thích ứng, tồn tại và phát triển trong kỉ nguyên số. ======= PAGE 46 ======= " 3 Sa l Chủ dẻ 3, Lắng nghe khúc hùng ca lịch sử (Văn học sử) ======= PAGE 47 ======= “tồn ,„gấc MWtúc tầng œa (jG# BÀI YÊU CẦU CẨN ĐẠT » _ Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của thơ trữ tình hiện đại: ngôn ngữ, hình tượng, biểu tượng. s Nhận biết và phân tích được quan điểm của người viết về lịch sử, văn hoá, được thể hiện trong văn bản. e _ Vận dụng được kinh nghiệm đọc, trải nghiệm về cuộc sống và kiến thức văn học để đánh giá, phê bình văn bản văn học, thể hiện được cảm xúc, suy nghĩ của cá nhân về văn bản văn học. s . Nhận biết và đánh giá được tác dụng của các biện pháp tu từ trong thơ. se Viết được văn bản nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ. © Nâng cao tỉnh thần yêu nước của học sinh qua các câu chuyện lịch sử được thủ thi trong thơ. A. KIẾN THỨC NGỮ VĂN I. Sứ mệnh văn chương và sứ mệnh thi ca thời chiến Văn chương mang trên mình nhiều trọng trách lớn lao nhưng cũng thật bình đị với đời sống và con người. Trong đó phải kể tới hai sứ mệnh quan trọng: ®_ Phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống từng thời kì, đem tới cơ hội cho bạn đọc nhiều thế hệ được chứng kiến những lát cắt lịch sử của một thời đã qua; để ta được lắng nghe những vang âm từ một thời kì mà ta không thuộc về. s© Thiên chức của văn học: khuyến thiện, trừ ác - nghĩa là nhân đạo hóa con người, hướng con người đến những điều cao cả, tốt đẹp, lan tỏa tình yêu thương và sự tử tế, đánh thức lòng yêu nước cùng tỉnh thần tự tôn dân tộc kiêu hãnh trong mỗi trái tim. Vậy, sứ mệnh của thi ca thời kì chiến tranh sẽ là gì, nếu không phải là tái hiện lại khung cảnh khốc liệt, khắc nghiệt và những hào hùng của thời chiến một cách chân thực nhất - qua đó làm nổi bật chân dung của những người Việt Nam yêu nước, thương dân? 46 ======= PAGE 48 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? ©_ Người cầm bút trong giai đoạn văn học Cách mạng cân ý thức được sức mạnh của ngôn từ mình viết, phải “bay theo đường dân tộc đang bay” (chữ của Chế Lan Viên), nghữa là không chỉ kiếm tìm “bầu trời” tự do lãng mạn của riêng mình để thỏa sức vẫy vùng đôi cánh, mà còn cần bám sát chặng đường chung của dân tộc, của đất nước, cất lên tiếng nói để bảo vệ bầu trời hòa bình, độc lập trên mảnh đất quê hương. e_ Văn học Cách mạng dùng cái TÔI để làm nổi bật cái TA; thể hiện sự hòa quyện giữa tình yêu cá nhân và tình yêu cộng đồng, giữa khao khát riêng tư và lý tưởng của Tổ quốc. Vị dụ: Nhà thơ Quang Dũng không phớt lờ những tình cảm cá nhân như nỗi nhớ nhà, tình yêu thương của người lính mà bộc lộ nó một cách tỉnh tế uà chân thực qua những thí phẩm của mình, nổi bật là bài thơ “Tây Tiến” ra đời tại Phù Lưu Chanh năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Những tình cảm riêng tư ấu không khiến họ khép mình lại trong thế giới cá nhân mà là động lực để người lính hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình uới cộng đồng. Ai nói rằng thơ chỉ là tiếng nói lãng mạn, bay bổng trên không trung rồi tan uào những đám mâu xa xôi uà không để lại giá trị gì cho đời...? Thực chất không phải như ậu. Thơ uăn cho ta thấy rằng chúng ta đang sống, cho ta thấu giá trị của chính chúng ta trong thời điểm mà Tổ quốc cần sự nỗ lực nà cố gắng của mỗi con người. Như Chế Lan Viên đã từng chiêm nghiệm: “Qua đứa con chúng ta đoán được sức mạnh của bà mẹ. Qua bài thơ chúng ta biết rằng cuộc chiến đấu của nhân dân nổ ra tất trắng kiện. Thơ đã đem lại lòng tin. Nó báo hiệu chúng ta âang tồn tại — lồn tại uững chắc trong máu lửa nàu.” 1I. Văn học sử Văn học giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 là một thời kì quan trọng trong chặng đường phát triển của văn học Việt Nam. Những sáng tác văn chương trong giai đoạn này trực tiếp ảnh hưởng từ sự dẫn dắt và chỉ đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, từ đó ta được đón chào một chân dung tác giả mới: nhà văn, nhà thơ đồng thời khoác màu áo chiến sĩ. Có thể phân nhỏ giai đoạn này thành các chặng: Từ năm 1945 đến năm 1954 (áng thơ ăn ca ngợi Tổ quốc uà quần chúng cách mạng, tôn oinh tính thần đoàn kết, cổ uũ cho cuộc kháng chiết chống Pháp uà phong trào Nam tiến của dân tộc); từ năm 1955 đến năm 1964 (ăn học gắn liền tới công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc uà cất cao khát uọng thống nhất đất nước); từ năm 1965 đến năm 1975 (oăn chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước). Đặc điểm cơ bản của thơ ca giai đoạn 1945 - 1975: 1. Khắc họa chân thực những khắc nghiệt nơi chiến trận, nơi mưa bom bão đạn đầy khốc liệt, nơi ranh giới gìữa sự sống — cái chết vô cùng mong manh. 47 ======= PAGE 49 ======= Vị dụ: se Trong “Nỗi buồn chiến tranl:”, nhà văn Bảo Ninh khắc họa về giai đoạn này qua những cụm từ đầy chân thực, ám ảnh: “... nơi thị im lìm chết lặng nơi thì rền uang tiếng súng” “,., dường chiến tranh oẫn hun hút mịt mù, tuyệt uọng tô phương” “,.. cái chết tầm thường 0à tô 0ƒ” « Trong “Dấu chân người lính”, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã khắc họa chân thực và đầy hào hùng khí thế “xẻ đọc Trường Sơn đi cứu nước” của thế hệ trẻ trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ với những cánh rừng ngút ngàn mênh mông, những thử thách khắc nghiệt trên con đường hành quân nhọc nhẳn vất vả, những trận tấn công liên tiếp từ quân thù. « Trong bài thơ đầy chân thực ngay từ tựa đề: “Mài nhang đêm giao thừa”, nhà thơ — người lính Văn Lê cũng đã từng viết đầy day dứt: “Năm tháng chúng tôi Äi cánh rừng xao xác lá Trước mặt đạn bom, sau lưng cũng đạn bom Tiểu đoàn tôi ba trăm người tất cả Chỉ còn năm, khi ề tới Sài Gòn” Và còn biết bao những vần thơ, những câu chuyện khác trong giai đoạn này đem tới cho ta những phác họa chân thực về khung cảnh khốc liệt, đau đớn thời kì chiến tranh. Độc giả của thế hệ sau khi tìm hiểu về những tác phẩm ấy, sẽ được nâng cao nhận thức về những tháng năm đã qua, về “bài ca không bao giờ quên” của dân tộc. 2. Men theo nhịp bước của Cách mạng và sát cánh với vận mệnh chung của Tổ quốc, là “Những năm đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt” (chữ của Chế Lan Viên): Thơ văn thời kì này trở thành “một mặt trận” (chữ của Hồ Chí Minh) mà ở đó văn nhân là chiến sĩ, ngòi bút là vũ khí. Khuynh hướng chủ đạo là tư tưởng cách mạng, các sáng tác tập trung vào đề tài Tổ quốc - bảo vệ đất nước, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân vật trung tâm là người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang. 3. Nền văn học hướng về quần chúng nhân dân: Đại chúng vừa là đối tượng phản ánh chủ yếu vừa là “nguồn cung cấp, bổ sung lực lượng” cho sáng tác văn học. Hình tượng chính của văn học thời kì này là hình tượng chiến sĩ, người lao động, quần chúng nhân dân với tâm thế và tư thế của người làm chủ trước cuộc sống mới. Hình thức nghệ thuật được thể hiện một cách gần gũi, quen thuộc với nhân dân đại chúng, ngôn ngữ trong sáng, bình dị. 48 ======= PAGE 50 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? 4. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn: Khuywnh hướng sử Hư: Văn học phản ánh những vấn đề có ý nghĩa lớn lao của cộng đồng dân tộc, tập trung thể hiện chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật chính thường là những con người tiêu biểu cho lí tưởng chung của dân tộc, kết tỉnh phẩm chất cao quý của cộng đồng, gắn bó số phận mình với vận mệnh của đất nước. Lời thơ mang giọng điệu trang trọng, hào hùng, thiên về ngợi ca, ngưỡng mộ. Cảm hứng lãng mạn: Đó là trạng thái tình cảm, cảm xúc ở ngưỡng cao nhất, đòi hỏi phải được tự biểu hiện thông qua hình thức nghệ thuật. Cảm hứng lãng mạn chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống và vẻ đẹp của con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Hơn hết, cảm hứng lãng mạn có xu hướng đi tìm cái đẹp, cái khác lạ, phi thường, độc đáo trong bối cảnh quen thuộc và thường ngày, Những người nghệ sĩ sáng tác ở giai đoạn này thường hòa quyện khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, vừa khắc họa khung cảnh chung của đất nước, vừa phản ánh thế giới nội tâm phong phú và vẻ đẹp phẩm chất đáng nâng nu, ngợi ca của con người Cách mạng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường được kết hợp với bút pháp hiện thực về phương điện nghệ thuật để làm bật lên hình ảnh con người vượt lên trên mọi gian khó, nhọc nhẳn, thể hiện được tỉnh thần cao đẹp của mình, không bao giờ cúi đầu trước thử thách. II. Tính biểu tượng trong thi ca Biểu tượng là hình ảnh mang tính ẩn dụ với khả năng miều tả và tạo hình vượt trội, cất chứa nhiều lớp lang ý nghĩa đa dạng, gợi ra nhiều chiêm nghiệm, cảm nhận về những điều có tính khái quát cao. Biểu tượng thường được hình thành, tồn tại và phát triển trong một khoảng thời gian đài nên có ý nghĩa không ngừng được bổ sung, cải biến và có một sức sống riêng, một đời sống riêng nằm ngoài phạm vi của văn bản. Bên cạnh khả năng khái quát bản chất của một hiện tượng, biểu tượng còn bộc lộ những quan niệm, triết lí sâu sắc về người và về đời. Quá trình hình thành, tạo tác một biểu tượng luôn nằm dưới sự ảnh hưởng của các yếu tố về tâm lí, cộng đồng, văn hóa, ... của dân tộc và thời đại. Nội quá trình sáng tác văn chương, bên cạnh sử dụng một cách có chủ đích, mang bản sắc cá nhân những biểu tượng sẵn có, các tác giả thường sáng tạo nên những biểu tượng mới với phong cách, cá tính riêng của họ. 49 ======= PAGE 51 ======= 1) sae a cẩu ngÁo ÂÊÑúc Ñùng, ca ẤeÉ, sử? càn Éae dự vệ chuáa phai phát từ quá, W2 Phác chăng Ád¿ chỉ ÈÁ¿ (6E nhừa về nÏường, gà Ấã qua Ta má thêm, thấm, (hứa mán quả, của, Ñiện tạ¿? lồ Âài ca bảng, Éae giờ quên, của, dân tộc Âng dụ &iâu ÑãnÊ, tà tận đầu (ng ? Đây khâng phải tÑe, và hñ⁄ông có vấn — ÂÍâng có quy Íuật nào Ñót. PRướu viết ngằu Ñướng phía tiên mà cô Quang, Ẩ{a¿ muốn, nhà, Ấể máng cáo Êq» sẽ bÂ4t gợi nÌường, câu xả, ÉB, của, siông âm, thô» mùnÑ, vét cù, đồ dế (9 của hàn, từnÑ, `Ði kiếm mùn, giaa, thế gian vậng lứa. iậu ta cá thổ từn được Tmừn(,, Íệu ta cá thể đuôi, uể thể giát môênẰ, mâng, quanÂ, ta, nếu &Ñông, (li ngược dàng uể nÑờng gù Ấã qua mà nâng nău, tân beng nhường Ñẩy ứo của (Ñế hệ át tước đã đem. đốn che ta cuậc sống nÂu¿ §âu giờ? ======= PAGE 52 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Vi du: Bỗng nhận ra hương ổï Phá ào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã ơề Sông được lúc đềnh dàng Chim bắt đầu oội uã Có đám mâu mùa hạ Vắt nửa mình sang thu Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã uơi đần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng câu đứng luổi. (Sang Thu, Hữu Thỉnh) Mùa thu theo nghĩa thông thường, đơn thuần chỉ một mùa trong năm, theo bước đi bất biến của quy luật tạo hóa: xuân, hạ, thu, đông, rồi lại xuân... Thế nhưng, bước chân chuyển giao của đất trời từ hạ sang thu qua góc nhìn và ngòi bút của nhà thơ Hữu Thỉnh lại mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc mà cũng thật bình dị. Đất trời “sang thu”, đời người cũng có thể “sang thu”, nghữa là bước sang một chặng mới của tuổi tác. Như vậy, “mùa thu” ở trong thi phẩm là hình ảnh mang tính biểu tượng. Mùa thu sang tượng trưng cho việc con người đã trải qua nhiều tháng năm, đã kinh qua bao buồn vui thăng trầm của cuộc sống. Nếu như xuân sang là lúc ta chập chững non nớt tìm hiểu về cuộc đời, mùa hạ là tuổi trẻ sôi nổi đầy rực rỡ, thì thu chính là khoảng thời gian trầm lắng của tuổi trung niên, để rồi đến khi mùa đông gõ cửa, ta đã bước sang bên kia sườn đốc của cuộc đời mà nhìn lại ba mùa đã đi qua. Đó là cảm nhận của cô, còn của các bạn thì như thế nào? Tính biểu tượng trong thi ca đôi khi không chỉ là lăng kính riêng của người viết khi sáng tác, mà còn trở nên phong phú, đa chiêu qua lăng kính chiêm nghiệm của độc giả. Bởi lẽ độc giả là người “đồng sáng tạo với nhà văn”. Bằng chính những trải nghiệm riêng tư và sự tưởng tượng của bản thân mình, bạn có thể ầm kiếm được những ý nghĩa biểu tượng ẩn sau những hình ảnh trong các tác phẩm để cảm nhận và ngẫm nghĩ. 51 ======= PAGE 53 ======= B. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN BẢN 1 GIÁ TỪNG THƯỚC ĐẤT Chính Hữu TRƯỚC KHI ĐỌC a. _ Nếu được chọn 3 từ để khắc họa về chiến tranh, bạn sẽ chọn những từ gì? Qua những thước phim, bài thơ, câu hát về giai đoạn chiến tranh khốc liệt của dân tộc năm 1945 - 1975, bạn ấn tượng với những hình ảnh nào? c.. Người anh hùng trong bạn là người như thế nào? Một người chỉ xuất hiện trong thời kì mưa bom bão đạn, hay ngay cả giữa cuộc sống thường nhật bình yên hiện nay? Một người có sức mạnh phi thường, siêu nhiên; hay một người bình thường nhưng có trái tim phi thường? Bạn có thể thử trình bày cảm nghĩ của bản thân thành một bài viết hoặc một bài nói ngắn để luyện tập khả năng diễn đạt của bản thân mình. ĐỌC VĂN BẢN Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo giội, Ta mới hiểu thế nào là đồng đội. Đồng đội ta là hớp nước uống chung Nắm cơm bẻ nửa Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mrra Chia khắp anh em một mẩu tin nhà Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp Chúa nhau cuộc đời, chía nhau cái chết. Bạn ta đó Ngã trên dâu thép ba tầng Một bà bàn tau chưa rời Đáng SN, " ^ 2w LC . =- -. tà S ý ======= PAGE 54 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Chân lưng chừng nửa bước xung phong. Ôi những con người mỗi khi nằm xuống Vẫn nằm trong tư thế tiến công! Bên trái: Lò Văn Sự Bên phải: Nguyễn Đình Ba, Những đêm tiến công, những ngày phòng ngự, Có phải các anh uẫn còn đủ cả Trong đội hình đại đội chúng ta? Khi bạn ta lấy thân mình đo bước Chiến hào đi, Ta mới hiểu giá từng thước đất, Các anh ở đâu Trận địa là đâu, Trận địa sẽ không lùi nửa thước, Không bao giờ, không bao giờ để mất Mảnh đất Các anh nằm. 1954 — 1961 Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972 53 ======= PAGE 55 ======= SAU KHI ĐỌC | I. Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm ¡_ Chính Hữu (1926 - 2007) tên thật là Trần Đình Đắc, quê ở huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Ông tham gia hoạt động cách mạng ở đơn vị Trung đoàn Thủ đô và hoạt động quân đội xuyên suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Hình tượng người lính và tỉnh thần đồng đội dường như là trung tâm trong thơ ca của Chính Hữu. Số lượng tác phẩm Chính Hữu để lại cho đời không nhiều nhưng hầu như đều đặc sắc, ấn tượng, ngôn ngữ tỉnh chọn, trong sáng. Bài thơ “Giá từng thước đất” được rút ra từ tập thơ “Đầu súng trăng treo”. Tác phẩm ban đầu có tên là “Đồng đội”, viết về chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu mà hình tượng chính yếu là người lính và tình đồng chí keo sơn, bền chặt. II. Câu hỏi gợi mở tư duy và năng lực cảm thụ Câu 1: Hãy xác định chủ thể trữ tình và đối tượng trữ tình của bài thơ. Câu 2: “Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo siội”, câu thơ này mở ra sự kiện lịch sử nào của dân tộc ta? Sự kiện chính trị - lịch sử đó được thể hiện trực tiếp thông qua những hiện thực nào trong bài thơ? Câu 3: Tỉnh thần đồng đội của người lính Điện Biên hiện lên bằng những hình ảnh, từ ngữ, bút pháp nghệ thuật nào? Câu 4: Ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ Chính Hữu viết: Ôi những con người mỗi khi nằm xuống Vẫn nằm trong tư thế Hếi công! Cuối khổ thơ đó, ông lại viết: Những dêm tiến công, những ngàu phòng ngự, Có phải các anh uẫn còn đủ cả Trong đội hình đại đội chúng la? at Theo em, liệu những dòng thơ trên có đối. nghịch, “É “N¬ 8 mình. ======= PAGE 56 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Câu 5: Liệt kê các biểu hiện của khuynh hướng sử thi trong bài thơ. Chọn một biểu hiện mà bạn ấn tượng để phân tích và cảm nhận. Câu 6: Phân tích và nêu hiệu quả cấu trúc, cách tổ chức ngôn ngữ trong khổ thơ cuối của bài thơ trên. Câu 7: Theo em, vậy rốt cuộc “giá từng thước đất” là gì? Cái “giá” đó để lại cho em bài học gì về mối quan hệ giữa cá nhân với Tổ quốc ngày này? VĂN BẢN 2 KHOẢNG TRỜI, HỖ BOM Lâm Thị Mỹ Dạ TRƯỚC KHI ĐỌC a. Bạn có ước mơ và khao khát gì cho tuổi trẻ của mình? Đó là một mộng ước riêng tư, cá nhân hay là một nguyện vọng vì cộng đồng, đất nước? b. Hãy tưởng tượng, là một người trẻ lớn lên giữa thời chiến, bạn sẽ lựa chọn và hành động như thế nào để góp sức bảo vệ Tổ quốc? c. Qua việc nghe bài hát Cô gái mở đường của nhạc sĩ Xuân Giao hoặc xem bộ phim Ngã ba Đồng Lộc do nghệ sĩ Lưu Trọng Ninh đạo diễn, kết hợp với những tìm tòi riêng về lịch sử, bạn hãy nêu cảm nhận của mình một cách ngắn gọn về hình tượng những cô gái thanh niên xung phong thời chiến. ĐỌC VĂN BẢN Chuyện kể rằng: em, cô gái mở đường Đểcứu con đường đêm ấy khỏi bị thương Cho đoàn xe kịp giờ ra trận Em đã lấu tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa Đánh lạc hướng thù, hứng lấu luồng bom... Đơn tị tôi hành quân qua con đường mòn Gặp hố bom nhắc chuiện người con gái Mội nấm mồ, nắng ngời bao.sắc đá, Tình têu, “hương lồi đắp cño lÊu;%. tự rà KYN $ =... 1 ======= PAGE 57 ======= 56 Tồi nhìn xuống hố bom đã giêt em Mưa đọng lại một khoảng trời nho nhỏ Đất nước trình nhân hậu Có nước trời xoa dịu oêt thương Âau. Em nằm dưới đất sâu Như khoảng trời đã nằm vên trong đất Đâm đêm, tâm hồn em toả sáng Những 0ì sao ngời chói, lung linh. Có phải thịt đa em mềm mại, trắng trong Đã hoá thành những làn mâu trắng? Và ban ngày khoảng trời ngập nắng Đi qua khoảng trời em - Vũng dương thao thức Hỡi Mặt Trời, hay chính trái tìm em trong ngực Soi cho tôi Ngày hôm na bước tiếp quãng đường dài? Tên con đường là tên em gửi lại Cái chết em xanh khoảng trời con gái Tôi soi lòng mình trong cuộc sống của em Gương mặt em, bạn bè tôi không biết Nên mỗi người có gương mặt em riêng. Trường Sơn, 10 - 1972 ======= PAGE 58 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? SAU KHI ĐỌC I. Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm Lâm Thị Vỹ Dạ (1949 - 2013) sinh tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Bà là nhà thơ có hoạt động tích cực trong thời kì kháng chiến chống Mỹ với hồn thơ “trong sáng vô ngần, những câu thơ của chị luôn vang lên như khúc ca của yêu thương, dịu dàng và mang một vẻ đẹp mong manh nhưng đây lan tỏa. Ngay cả những câu thơ chị viết về mất mát trong chiến tranh cũng vang lên vẻ đẹp ấy.” (Nguyễn Quang Thiều nhận xét). Bà là tác giả của nhiều bài thơ và truyện thiếu nhỉ được bao thế hệ ưa thích như Trái tim sinh nở (thơ, 1974), Phần thưởng muôn đời (truyện thiếu nhỉ, 1987), Đề tặng một giấc mơ (thơ, 1988), ... “Khoảng trời, hố bom” được sáng tác vào một ngày tháng 10 năm 1972, khi nữ thi sĩ đi thực tế tại Trường Sơn và tìm lại tiểu đội nữ thanh niên xung phong năm nào. Không biết ai còn, ai mất, trước mắt nhà thơ chỉ còn lại những hố bom nước đọng. Bài thơ ra đời từ sự thật đầy bi tráng ấy. II. Câu hỏi gợi mở tư duy và năng lực cảm thụ Câu 1: Cảm nhận hai đối tượng trong nhan đề bài thơ Khoảng trời, hố bom, những đối tượng đó có mối liên hệ nào tới đối tượng trữ tình xuyên suốt tác phẩm? Câu 2: Hình tượng nữ thanh niên xung phong hiện lên qua những từ ngữ, hành động, hình ảnh nào trong đoạn thơ đầu tiên? Câu 3: Thể thơ, cách ngắt nhịp, bố cục của bài thơ trên có tác dụng gì trong việc làm rõ đối tượng trữ tình và cảm xúc của chủ thể trữ tình? Câu 4: Em hiểu gì về mối quan hệ giữa con người và đất nước trong thời kì kháng chiến chống Mỹ thông qua khổ thơ thứ hai? (Gợi ý: Chú ý vào bốn câu thơ cuối) kì và phân tích dấu ấn của cảm hứng lãng mạn ở đoạn \ TẢ. đý ;⁄4 R bài kd ======= PAGE 59 ======= chất sử thi, hào hùng không được thể hiện rõ nét, bạn sẽ đáp lại như nào? Trình bày quan điểm của mình bằng một bài nói ngắn khoảng 2 - 3 phút. Câu 7: Qua hình tượng nữ thanh niên xung phong mở đường và hình tượng người lính trong những bài thơ cùng thời kì, bạn hãy mô tả lại bức tranh toàn cảnh thế hệ trẻ “xẻ đọc Trường Sơn đi cứu nước” bằng ngôn từ của mình. b4 ^ ` C. TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH Biện pháp tu từ là việc sử đụng ngôn ngữ một cách độc đáo, sáng tạo, linh hoạt nhằm làm tăng giá trị biểu đạt cho lời nói, câu, văn bản. I. Kiến thức chung: Biện pháp tu từ trong thơ 1. Biện pháp tu từ ngữ âm Biện pháp tu từ ngữ âm là việc kết hợp, sử dụng khéo léo các âm thanh của ngôn ngữ để tạo ra giá trị biểu cảm nhất định. 1.1. Điệp âm 1.1.1. Điệp phụ âm Điệp phụ âm là việc lặp lại phụ âm đầu (hoặc phụ âm cuối) nhằm mục đích tăng tính tạo hình và biểu cảm. Cần lưu ý, điệp âm sẽ dựa trên cách phát âm của từ, không dựa trên chữ cái thể hiện. Ví dụ: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” (Nguyễn Du) phổi, pháo I Íh |hờ |nh |huhi trờ Iị_}ư lỡ | [4 | lị |Jgad |gide [sr/d [giếng dao chơi, cho, chuộng Mã nhà, nhảy, những ng/ngh n+g/ ngành, nghĩ, n+g+h | 8 | bị |kh 9 | M | M — gígh lgờ ———— |g/g+h gà, gọi ghi, ghe c/q/k xê/quy/ca c/q/k cà kê, cà quả le lc— Jattúc ======= PAGE 60 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiên? mà —_ bảng, bơi, biết miệng, môi, mắt & —— la [man | =—— » ` ^ năm, nàng, nên max lên, lòng, lợi : ha Jx xuống —| p _— |bipbjpchp — —_| s — |sysmsipsa — | ănuống leo (Bảng phát âm các neuyên âm Tiếng Việt) Ngoài ra, điệp phụ âm không chỉ dựa trên yếu tố âm vị mà còn dựa trên sự tương đồng về vị trí âm thanh, cơ quan phát âm. Xem bảng hệ thống phụ âm đầu sau: (Bảng phụ âm tổng hợp) Xét ví dụ sau: “Khi ca, khi từu, khi cắc, khi từng, Không Phật, không tiên, không oướng tục. ” (Nguyễn Công Trứ) 39 ======= PAGE 61 ======= ru Ở câu thơ đầu, hai phụ âm “c” và “ng” đều là phụ âm tắc, cùng nằm ở vị trí cuối lưỡi. Ở câu thơ thứ hai, âm “t”, “n” cùng là âm lợi. Để hiểu rõ hơn về tác dụng của thủ pháp điệp phụ âm, ta xét tiếp ví dụ sau: “Tài cao phận thấp chí khí uất Giang hồ mê chơi quên quê lương” (“Thăm ma cũ bên đường” - Tần Đà) y.ỷ_ Ở câu thơ đầu, hai phụ âm “p” và “t” đều là âm xát, vô thanh, tạo cảm giác nghẹn ngào, uất ức. Ở câu thơ thứ hai, hai âm cuối “ng” kết hợp một số âm tiết mở “h”, “m”, “qu” thể hiện sự thoát tục, phong trần, muốn buông thả cho quên sự đời. 1.1.2. Điệp oần Ở chương 1, ta đã biết rằng phần vần bao gồm ba vị trí âm đệm, âm chính và âm cuối; trong đó, âm chính là hạt nhân, là bộ phận quan trọng và thường được phát âm rõ ràng nhất. Điệp vần là khi ta lặp lại phần vần của từ (chủ yếu là lặp lại âm chính). Đêm khuya năng ung trống canh đồn, Trơ cái hồng nhan uới nước non. Chén rượu hương Äưa saự lại tỉnh, Vũng trăng bóng xế khuuêt chưa tròn. Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám, Đâm toạc chân mâu, đá mất hòn. Ngắn nỗi xuân đi xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ HÍ con con! (Hồ Xuân Hương) Ở bài thơ trên, vần “on” - trong đó, nguyên âm “o” là nguyên âm lưỡi trung, âm vực thấp, tròn môi - được điệp xen kẽ nhau, tạo cảm giác nhỏ bé, lỡ đở, chưa trọn vẹn. Khi dùng phép điệp âm, người ta không chỉ điệp y chang âm chính mà đôi khi sẽ sử dụng các nguyên âm có sự tương đồng về tính chất, phù hợp với cảm xúc, thái độ muốn truyền tải. © Nguyên âm bổng, hàng trước (vị trí lưỡi), không tròn môi: “ê”, “e”, “i“. ©_ Nguyên âm trung hoà, hàng giữa hoặc hàng sau (vị trí lưỡi), không tròn môi: “ư”, “0”, “a”, se _ Nguyên âm trầm, hàng sau, tròn môi: “u”, “ô”, “o”, Vị dụ: ======= PAGE 62 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hìu, Đâu Hếng làng xa 0ãn chợ chiều. Nẵng xuống, trời lên sâu chót uúi; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. (Huy Cận) Vân “iu” trong “hiu” và vần “iêu” trong “chiều” và “liêu” đều chứa những nguyên âm bổng, hàng trước, độ mở miệng thấp, thể hiện sự co ro, cô đơn, vắng vẻ của con người giữa thiên nhiên, vũ trụ bao la. 1.1.3. Điệp thanh Điệp thanh là việc lặp lại dấu thanh nhằm mục đích tu từ. Trong Tiếng Việt, người ta chia làm hai nhóm dấu thanh chính là thanh bằng và thanh trắc. Thanh bằng gồm bốn thanh: sắc, hỏi, ngã, nặng và thanh huyền gồm hai thanh: huyền, ngang. “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng câu số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió." (Nguyễn Tuân) Ta thấy nhà văn đã điệp liên tiếp thanh trắc trong từ “nước”, “đá”, “sóng”, “gió”, gợi lên sự va đập mạnh mẽ của sóng thác trên sông Đà. Khi sử dụng thanh bằng, ta lại có hiệu ứng cảm xúc khác. “Nhà ai Pha Luông mưa sa khơi” (Quang Dũng) Có thể thấy, toàn bộ câu thơ đều là thanh bằng, thể hiện tâm thế nhẹ nhàng, thoải mái của những người lính sau một ngày hành quân đầy gian nan. 1.2. Hai thanh Hài thanh là việc sử dụng kết hợp hài hoà nhiều hiệu ứng ngữ âm của từ để tạo ra cảm xúc phù hợp khi diễn đạt. Người ta sử dụng biện pháp hài thanh để cân bằng yếu tố âm thanh khi diễn đạt, làm cho câu văn, lời thơ thêm da diết, sâu lắng. Vi dụ: “Dữ dội 0à dịu êm Ôn ào à lặng lẽ” (Trích “Sóng”, Xuân Quỳnh) Nhà thơ đã chia hai câu thơ thành hai vế, vế đầu tiên là tính từ thể hiện sự dữ dội, nồng nàn bằng các thanh trắc, các nguyên âm trầm, tròn môi như sự cồn cào của biển cả; vế thứ hai là tính từ thể hiện sự nhẹ nhàng, êm ả qua các thanh bằng, các nguyên âm bổng như tiếng nhạc du dương, dịu dàng của đại dương. Chính biện pháp hài thanh đã làm cho các yếu tố ngữ âm trong câu thơ được hài hoà, thể hiện rõ nét sự cộng hưởng của hai yếu tố 61 ======= PAGE 63 ======= A“ đối lập trong cùng một chủ thể “sóng”. 1.3. Gia thanh Giả thanh (hay còn gọi là tượng thanh) là việc bắt chước âm thanh của sự vật, sự việc nào đó. Giả thanh có thể hoàn toàn hoặc gần giống. Ví du: Lập bập Lập bộp... Rơi Rơi... Đấi trời Mù trắng nước Mưa chéo mặt sân Sui bọt (Trích “Mưa”, Trần Đăng Khoa) Nhà thơ đã mô phỏng âm thanh tiếng mưa rơi qua từ láy “lộp bộp” - âm thanh tiếng mưa rơi trước sân nhà hoặc trên những mái tôn. Sau đó là những hình ảnh như “mù trắng nước”, “chéo mặt sân”, thể hiện rất sinh động thời điểm bắt đầu một trận mưa rào. 2. Biện pháp tu từ từ vựng - ngữ nghĩa Biện pháp tu từ từ vựng - ngữ nghĩa là việc sử dụng sáng tạo, khéo léo từ vựng và ngữ nghia nhằm tăng giá trị biểu đạt. Biện pháp tu từ từ vựng - ngữ nghĩa bao gồm những biện pháp sau: 2.1. So sánh So sánh là việc so sánh các đối tượng với nhau đựa trên sự tương đồng giữa chúng. So sánh luôn có hai vẽ: vế được so sánh và vế so sánh. Vị dụ: “Cánh buồm giương to nhà một mảnh hồn làng” (Tế Hanh) Ở ví dụ trên, “cánh buồm giương to” là vế được so sánh, “mảnh hồn làng” là vế so sánh, phương tiện so sánh là từ “như”, thể hiện sự ngang bằng giữa hai sự vật, hiện tượng. So sánh có thể ngang bằng (phương tiện so sánh thường là: là, như, cũng như, giống, y,... ; hoặc dấu hai chấm, dấu gạch nối,...) hoặc không ngang bằng (phương tiện so sánh thường là: không như, khác, hơn, thua, không bằng,...) Tác dụng của phép so sánh: « _ Về nghệ thuật: Làm cho diễn đạt thêm sinh động, giàu hình ảnh. 62 ======= PAGE 64 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? « Về nội dung: Làm cho sự vật thêm cụ thể hoặc trừu tượng, đóng góp thêm nhiều góc nhìn về sự vật, hiện tượng dỏ. Trong một số trường hợp, vế so sánh không nhất thiết phải cụ thể hơn vế được so sánh. Ví dụ: Trong tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân viết: “Bờ sông hoang đại nÏrự một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.” Ở đây, tác giả đã so dùng hai sự vật mang tính trừu tượng “bờ tiền sử”, “cổ tích tuổi xtra” để so sánh cho một sự vật vô cùng cụ thể “bờ sông”. Điều đó làm thiên nhiên nơi sông Đà càng trở nên huyền ảo, bí ẩn, tựa như nơi xứ sở thần tiên. 2.2. Ấn dụ Ấn dụ là biện pháp lấy sự vật này để lâm thời biểu thị cho sự vật khác dựa trên những nét tương đồng về tính chất. Có thể coi ẩn dụ là một hình thức so sánh nhưng bị khuyết một vẽ. “Ngày ngày mặt trời (1) đi qua trên lăng, Thấy một mặt trời (2) trong lăng rất đỏ.” {Trích “Viễng lăng bác”, Viễn Phương) Hình ảnh “mặt trời” ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của vũ trụ, nhưng hình ảnh “mặt trời” ở câu thơ thứ hai lại là hình ảnh ẩn dụ. Tác giả đã lấy sự tính chất của mặt trời (chỉ có một, toả sáng, mang hơi ấm cho nhân loại) để biểu thị cho vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh (người đã mang ánh sáng của Đảng đến cho nhân dân). Phân loại ẩn dụ: - Ấn dụ hình thức: Là ẩn dụ dựa trên nét tương đồng về hình thức của sự vật. Ví du: “Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông” (Nguyễn Du). Từ “lửa” là một phép ẩn dụ hình thức, biểu thị cho màu đỏ đậm, rực rỡ của hoa lựu. + _ Ấn dụ cách thức: Là ẩn dụ đựa trên nét tương đồng về cách thức của sự vật. VÍ dụ: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Câu tục ngữ trên đã sử dụng phép ân dụ ở hai tử ngữ “ăn quả” (chỉ người hưởng thụ thành quả), “kẻ trồng cây” (chỉ người đã làm nên thành quả đó). * Ẩn dụ phẩm chất: Là ẩn dụ dựa trên nét tương đồng về phẩm chất của sự vật. VÍ dụ: “Thuyền tề có nhớ bến chăng! Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”. Ở đây, hình ảnh “thuyền” biểu thị cho người con trai (thường xuyên đi đây đi đó để tìm cơ hội cho bản thân) và “bến” biểu thị cho người con gái (luôn chờ đợi, ngóng trông thuyền trở về). 3 ======= PAGE 65 ======= + Ấn dụ chuyển đổi cảm giác: Là việc lấy giác quan này để biểu thị cho giác quan khác. Ví dụ: “Ánh nắng châu đầu uai”. Từ “chảy” (xúc giác) biểu thị cho việc ánh nắng chiếu xuống vai (thị giác). Tác dụng của phép ẩn đụ: » _ Về nghệ thuật: Làm cho diễn đạt trở nên ấn tượng, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc. » -_ Về nội dung: Cung cấp thêm góc nhìn về sự vật, hiện tượng. 2.3. Hoán dụ Hoán dụ là việc lấy sự vật hiện tượng này để lâm thời biểu thị cho sự vật khác có mối quan hệ gần gũi về mặt logic. Ví dụ: “Áo chàm đưa buổi phân li” (Tế Hữu) Ở câu thơ trên, hình ảnh “áo chàm”, về mặt tính chất, không hề tương đồng với người nông dân. Nhưng “áo chàm” lại là chiếc áo mà người nông dân Việt Bắc thường xuyên mặc trong sinh hoạt thường ngày. Vì thế mà tác giả đã dùng hình ảnh “áo chàm” để biểu thị cho người nông dân Việt Bắc. “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, Một người chín nhớ mười trong một người. ” (Nguyễn Bính) Áo nâu liền uới áo xanh Nông thôn cùng uới thị thành đứng lên (Tố Hữu) Biểu hiện của phép ẩn dụ: Lấy vật chứa để chỉ vật bị chứa, lấy cái cụ thể để chỉ cái chung, lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật, lấy cái cụ thể để chỉ cái trừu tượng. Tác dụng của phép hoán dụ: Tương tự với phép ẩn dụ. Phân Ï— ẩn dụ với hoán đụ: Giống nhau | Đều lấy sự vật này để lâm thời biểu thị sự vật khác Dựa trên nét tương đồng về tính | Dựa trên mối quan hệ logic chất giữa hai sự vật, hiện tượng. | giữa hai sự vật, hiện tượng. Khác nhau ======= PAGE 66 ======= Tập 01 - Ngoài kía rực rỡ bao nhiêu? Từ hồi uề thành phố Quên ánh điện, cửa gương Vũng trăng đi qua ngõ Như người dưng qua đường (Nguyễn Duy) Có thể thấy, hình ảnh “ánh điện”, “cửa gương” là hình ảnh hoán dụ, vì về tính chất, “ánh điện”, “cửa gương” không đồng nhất với cuộc sống ở thành thị. Nhưng hai sự vật đó là một biểu hiện tiêu biểu cho cuộc sống thành phố nên nó lâm thời biểu thị cho điều đó. “Thương thay thân phận con rùa Lên đình đội hạc xuống chùa đội bia.” Hình ảnh “con rùa”, xét về mặt logic, không hề tương cận với người nông dân. Nhưng nếu phân tích theo khía cạnh tính chất, con rùa là một sinh vật thấp cổ bé họng, tương đồng với số phận người nông dân ngày xưa. Hành động “đội hạc”, “đội bia” cũng ẩn dụ cho cuộc sống mưu sinh vất vả, luôn phải luồn cúi, chịu bao nhiêu dày vò, bất công. 2.4. Nhân hoá Nhân hoá là việc dùng hành động, tính chất của con người cho những sự vật, hiện tượng không phải là người. Núi cao bởi có đất bồi, Núi chê đất thấp núi ngồi ở đâu. Tác dụng của phép nhân hoá: « _ Về nghệ thuật: Làm cho diễn đạt thêm sinh động, có hồn hơn. « __ Về nội dung; Giúp cho sự vật, hiện tượng trở nên gần gũi với con người hơn. 2,5. Phép điệp Điệp là việc lặp lại từ, ngỡ, cú pháp có chủ đích nhằm nhấn mạnh nội dung cần biểu đạt, thông qua đó tạo nhịp điệu cho câu văn/câu thơ. Ví dụ: “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”. (Thép Mới Ở câu văn trên, tác giả đã điệp lại bốn lần từ “giữ” nhằm nhấn mạnh vai trò của cây tre trong đời sống của người Việt Nam. Phân loại phép điệp: » _ Phân loại theo vị trí điệp: điệp nối tiếp, điệp ngắt quãng, điệp vòng. 65 ======= PAGE 67 ======= « __ Phân loại theo thành phần được điệp: điệp từ, điệp ngữ, điệp cú pháp. Học sinh cần dựa theo kiến thức ở chương 1 để phân biệt rõ về từ, cụm từ và cú pháp. Cần lưu ý đến phép điệp cú pháp, đó là phải điệp lại đúng khung cú pháp của câu trước. Ví du: “Trời xanh đâu là của chúng ta Núi rừng đâu là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa.” (Nguyễn Đình Thủ Ở đoạn thơ trên, ta sẽ thấy rõ hai cấu trúc được lặp lại, đó là Danh từ + “đây là của chúng ta” và “Những” + danh từ. Khi trình bày, học sinh có thể ghi tắt là phép điệp cấu trúc “,..đây là của chúng ta”, “Những...” Tác dụng của phép điệp: » _ Về nghệ thuật: Tạo nhịp điệu cho câu văn/câu thơ; làm cho diễn đạt có tính nhạc, khơi gợi cảm xúc. » _ Về nội dung: Nhấn mạnh nội dung mà người viết, người nói muốn truyền đạt. 2.6. Biện pháp nói quá 0à nói giảm nói tránh Nói quá là việc khuếch đại tính chất, mức độ của sự vật, hiện tượng nhằm nhấn mạnh và thể hiện cảm xúc. Ví dụ: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm uỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho thân nàu phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác nàu gói trong da ngựa ta cũng 0ui lòng.” (Trần Quốc Tuấn) Ngược lại, nói giảm nói tránh lại làm giảm đi mức độ diễn đạt, làm cho nó mềm mại, nhẹ nhàng hơn, đúng với mục đích cần diễn đạt. `. V{ du: “Anh bạn dãi đầu không bước nữa ¡ Gục lên súng mũi bỏ quên đời.” (Quang Dũng) Tác dụng của biện pháp nói quá và nói giảm nói tránh: Không có tác dụng chung, học sinh cần dựa vào ngữ cảnh chứa biện pháp đó để đánh giá. Thường sẽ có những tác dụng sau: e . Nhấn mạnh (hoặc làm giảm) tình trạng, thái độ của người viết, nhân vật, chủ thể trữ tình... s __ Thể hiện sự đồng cảm, kính trọng (đối với phép nói giảm nói tránh) s - Làm tăng hiệu quả diễn đạt, giúp người đọc lĩnh hội nội dung một cách sâu sắc 66 ======= PAGE 68 ======= lập U1 - Ngoöạ! Kia rực rỡ bao nhiêu? hơn. 2.7. Biện pháp chêm xen Biện pháp chêm xen là việc người viết, người nói chen thành phần biệt lập vào ngay sau thành phần thể hiện thông tin chính trong câu nhằm bổ nghĩa cho thành phần đó hoặc làm gia tăng tính biểu cảm cho câu. s _ Gin cảnh của Hương rất nghèo khó. Cô ấu, mặc dù oậu, ấn cố gắng học hành cho đến nơi đến chốn. e Côbé nhà bên (có ai ngờ) Cũng uào du kích. Hôm gặp tôi uẫn cười khúc khích Mắt ẩen tròn (hương thương quá đi thôi!) (Giang Nam) 2.8. Biện pháp nghịch ngữ Nghịch ngữ là biện pháp mà ở đó, người viết, nói sử dụng liền kề hoặc gần nhau các thành phần ngữ pháp mang tính chất đối lập trong cùng một câu (hoặc đoạn văn). Tác dụng của phép nghịch ngữ: tạo ra cách nói nghịch lý, bất ngờ để thể hiện đúng nhận xét về đối tượng đang được nói tới. Ngoài ra, nghịch ngữ còn mang lại những góc nhìn, nhận thức độc đáo, mới lạ, đa chiều hơn. Người ta có thể tạo ra nghịch ngữ bằng cách: + __ Dùng các từ trái nghĩa, tạo ra những kết hợp từ mới lạ, bất bình thường. Ví dụ: “bản đồng ca lặng ngắt” (Nguyễn Tuân), những cái chết bất tử, vở bị kịch lạc quan. Nghịch ngữ cũng khá phổ biến trong văn nói: đẹp ghê, ngon ghê, hiền dữ. » _ Sử dụng các từ, ngữ, vế câu trái ngược nhau của cùng một đối tượng hoặc giữa các đối tượng khác nhau. Vi dụ: Dù đục, dù trong con sông uẫn chảu Dù cao, dù thấp câu lá oẫn xanh Dù người phàm tục hay kẻ lụ hành Đều phải sống từ những điều rất nhỏ. (Lưu Quang Vũ) 67 ======= PAGE 69 ======= 2.9. Biện pháp liệt kê Liệt kê là việc người viết (người nói) kể ra nhiều sự vật, hiện tượng,... có chung một trường liên tưởng trong một câu, một đoạn. Tác dụng của phép liệt kê: » _ Về nghệ thuật: Tạo nhịp điệu cho câu thơ (câu văn), làm cho diễn đạt trở nên sinh động, gợi hình, gợi cảm. » -_ Về nội dung: Cụ thể hoá đối tượng, nội dung được đề cập đến. Lưu ý: Học sinh cần phân biệt sự khác nhau giữa liệt kê thông thường và liệt kê nghệ thuật. Liệt kê thông thường chỉ thoả mãn tác dụng số 2 (cụ thể hoá đối tượng được đề cập đến) chứ không làm cho diễn đạt trở nên sinh động hơn. Vị dụ: Nhà em có bốn người: ba, mẹ, anh Của em 0à em. Đối với liệt kê nghệ thuật, phép liệt kê không chỉ cụ thể hoá cái được nhắc đến mà còn có chức năng khơi gợi cảm xúc. Ví dụ: Toàn thể đân tộc Việt Nam quyêt đem cả tỉnh thần oà lực lượng, tính mạng oà của cải để giữ uững quyền tự do, độc lập ấy (Hồ Chí Minh). Ở ví dụ số 2, phép liệt kê tạo nhịp điệu rất rõ ràng vì các danh từ được liệt kê được hài thanh vô cùng tốt, thể hiện sự quyết liệt, sôi nổi của nhân dân Việt Nam, sẵn sàng hi sinh để có được độc lập. 2.10. Im lặng Im lặng (chủ yếu được sử dụng trong văn viết) là việc người viết tạo ra những khoảng trống trong diễn đạt để thể hiện cảm xúc (thường là cảm xúc nghẹn ngào, nín lặng,...). “Cháu đi đường cháu Chủ lên đường xa Đểi nay tháng sau Chợt nghe tin nhà Ra thế... Lượm ơi! (Tố Hữu) Biện pháp im lặng thường đi cùng với dấu ba chấm (trường hợp này gọi là đấu chấm lửng). Nhưng đôi khi, không cần có dấu chấm lửng, biện pháp im lặng vẫn được thể hiện. Vị dụ: Mị đứng lặng trong bóng tối. (Tô Hoài) 68 ======= PAGE 70 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? 3. Biện pháp tu từ cú pháp Biện pháp tu từ cú pháp là việc sử dụng cấu trúc câu một cách độc đáo, sáng tạo, nhằm thể hiện mục đích tu từ khi diễn đạt. Tài liệu này sẽ giới thiệu tới học sinh một số biện pháp tu từ cú pháp phổ biến được dạy ở trường phổ thông sau: 3.1. Sử dụng các loại câu đặc biệt Ngoài các loại câu được giới thiệu ở phần II chương 1, người ta có thể sử dụng một số loại câu có cấu trúc đặc biệt nhằm mục đích tu từ, thường thấy nhất là câu tỉnh lược và câu đặc biệt. Câu tỉnh lược là câu bị lược bớt một thành phần nào đó để câu trở nên gọn hơn nhưng không làm ảnh hưởng quá nhiều tới nội dung cần diễn đạt. Câu tỉnh lược có thể khuyết chủ ngữ hoặc vị ngữ, đôi lúc có thể rút gọn cả mệnh đề nòng cốt. ® “Bạn ăn cơm chưa?” - “Rồi” (Câu đầu đủ là “Tôi ăn cơm rồi”) © “Tác phẩm ăn học nào mà em yêu thích nhất?” - “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân” ® “Ai muốn làm công uiệc này nào?” - “Tôi” ®_ Câu đặc biệt là câu không tuân theo cấu trúc ngữ phúp thông thường, nó có thể chỉ bao gồm một từ, ngữ. s_ Trời ơi! Sao tôi khổ thế này. *_ Than ôi! Thời oanh liệt na còn đâu. 3.2. Đảo ngữ Đảo ngữ là việc đảo một thành phần câu lên đầu nhưng không làm thay đổi ý nghĩa của câu. Phép đảo ngữ có tác dụng nhấn mạnh vào thành phần được đảo, gây ấn tượng sâu sắc, đậm nét về sự vật, hiện tượng. Vị du: * “Cửi một cành khô lạc mấy dòng”. (Huy Cận) *_ “Đã tan tác những bóng từ hắc ám! Đã sáng lại trời thu tháng Tám”. (Tế Hữu) 3.3. Câu hỏi tụ từ, Câu hỏi tụ từ là hình thức câu hỏi nhưng không phải để hỏi mà là để tăng tính diễn cảm của lời nói, thể hiện cảm xúc (thường là sự bâng khuâng). Vị du 1; s9 ======= PAGE 71 ======= “Sao anh không uêề chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” (Hàn Mặc Tử) “Ai nặn nên hình Khế chia năm cánh?” (Phạm Hồ) 3.4. Tách biệt Tách biệt là phương thức tách bất kì thành phần nào đó của câu ra làm một câu độc lập với mục đích nhấn mạnh thành phần được tách và tăng tính biểu cảm. s - Nẹay buổi chiều hôm đó. Mặt biển trở lại thanh bình. (Nguyễn Tuân) ©_ Tôi nghĩ đến sức mạnh của thơ. Chức năng 0à oinh dự của thơ. (Phạm Hồ) © Từ ngấng mặt lên nhìn Hộ ba lần. Ba lần. Từ muốn nói nhưng lại không đám nói. (Nam Cao) II. Luyện tập Bài 1: Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ nhân hóa trong cách câu thơ sau đây: a. Áo bào thay chiếu anh ề đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành (Tâu Tiến, Quang Dũng) b. Đất nước mình nhân hậu Có nước trời xoa địu oết thương đau. (Khoảng trời, hố bom, Lâm Thị Vụ Dạ) Bài 2: Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ ấn dụ trong các câu thơ sau: q. Đi qua khoảng trời em - Vũng dương thao Hiức Hỡi Mặt Trời, hay chính trái lim em Irong ngực Soi cho tôi Ngày hôm nay bước Hêp quãng đường đài? (Khoảng trời, hố bom, Lâm Thị Vụ Dạ) b. Hoa chuẩn bị âm tầm trong đất Nơi đó nhất định mùa xuân sẽ bùng lên (Trường ca Những người di tới biển, Thanh Tháo) 70 ======= PAGE 72 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Bài 3: Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong các câu thơ sau: ñ. Mười tắm hai mươi sắc như cỏ Dày như cỏ Yếu mềm uà mãnh liệt như có (Trường ca Những người ái tới biển, Thanh Thảo) b,Em nằm dưới đất sâu Như khoảng trời đã nằm tên trong đất (Khoảng trời, hố bom, Lâm Thị Vỹ Dạ) Bài 4: Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ điệp ngữ trong các câu thơ sau: q. Chiều hành quân Qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Mu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt (Màu tím hoa sim, Hữu Loan) b, Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó san sở Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sử Làm nên Đất Nước muôn đời... (Trường ca Mặt đường khát ọng, Nguyễn Khoa Điềm) Bài 5: Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ hoán dụ trong các câu thơ Sau: a. Âo chăm đưa buổi phân lụ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay... (Việt Bắc, Tố Hữu) b. Áo nâu liền uới áo xanh Nông thôn cùng uới thành thị đứng lên (Ba mươi năm đời ta có Dúng, Tế Hữu) 7 ======= PAGE 73 ======= D. VIẾT VIẾT BÀI VĂN SO SÁNH, ĐÁNH GIÁ HAI TÁC PHẨM THƠ 1. Trị thức về kiểu bài Bài uăn so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ là kiểu bài nghị luận sử dụng hệ thống lí le và dẫn chứng để làm rõ những điểm tương đồng/khác biệt về giá trị nội dung và nghệ thuật giữa hai tác phẩm thơ, đồng thời làm bật lên được căn tính sáng tạo, những đóng góp mới mẻ của từng tác giả. Ví dụ: Bạn hãy viết một bài văn nghị luận để so sánh, đánh giá về hình tượng người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp qua hai tác phẩm sau: Tây Tiếu của Quang Dũng và Đồng Chí của Chính Hữu. Yêu cầu về kiểu bài: «© Giới thiệu ngắn gọn về hai tác phẩm thơ, nêu được những mục đích, cơ sở của việc chọn lựa hai tác phẩm đó để đánh giá và so sánh. ©_ Làm sáng tỏ những điểm gặp gỡ và điểm khác biệt của hai bài thơ được chọn để so sánh. »_ Sử dụng lý lẽ, dẫn chứng xác đáng, thuyết phục, đa dạng từ hai tác phẩm; sắp xếp các ý một cách logic, hợp lý, rõ ràng, đảm bảo tính mạch lạc. ©- Đưa ranhững đánh giá, nhận xét thuyết phục về giá trị, ý nghĩa và những đóng góp riêng của cả hai tác phẩm thơ dựa trên kết quả so sánh. © - Khái quát lại kết quả so sánh, đánh giá và ý nghĩa của việc thực hiện thao tác so sánh đánh giá giữa hai tác phẩm này. 2. Đọc ngữ liệu tham khảo và trả lời câu hỏi NỖI NHỚ TRONG VIỆT BẮC CỦA TỐ HỮU VÀ TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta di đất bỗng hóa tâm lồn Nhà thơ Chế Lan Viên từng cất lên tiếng thơ đầy thốn thức như thế sau khi đánh rơi hồn mình nơi Tây Bắc hùng vĩ, thiêng liêng. Mỗi bước chân ta đi qua đều lưu lại trên miền đất 72 ======= PAGE 74 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? ấy một lời hẹn ước, một nỗi niềm riêng. Liệu rằng nhà thơ Tố Hữu và thi sĩ Quang Dũng có để lại những sự luyến tiếc, nhớ nhung nào chăng ở nơi Việt Bắc và Tây Bắc mà trong thơ họ lại đạt đào nỗi nhớ đến thế? Nỗi nhớ trở thành mạch nguồn cảm xúc cho hai bài thơ Việt Bắc và Tây Tiến, cất lên thành tiếng hát thiết tha mặn nồng mãi ngân vang trong lòng bạn đọc. Đối tượng của nỗi nhớ trong cả hai bài thơ thường chủ yếu xoay quanh đất và người nơi họ nói lời tạm biệt. Ở Tây Tiên, cảnh sắc Tây Bắc hiện lên kì vĩ và khoáng đạt: Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi! Nhớ tề rừng núi nhớ chơi uơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mũi Mường Lát hoa 0Ê trong đêm hơi Nét hùng vĩ, nên thơ đó ta cũng bắt gặp trong bức tranh Việt bắc mà nhà thơ Tố Hữu đã viết nên thông qua những địa danh cụ thể: Ai 0ề ai có nhớ không? Tụ Uề ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng. Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà... Song, thiên nhiên ở Tây Bắc qua góc nhìn của nhà thơ Quang Dũng đường như ẩn chứa những mối nguy hiểm của một chốn rừng thiêng nước độc: Chiều chiêu oi linh thác gầm thét Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người Quang cảnh trong Việt Bắc lại có phần dịu dàng, đằm thắm, chan chứa tình cảm của con người nơi đây: Nhớ gì như nhớ người tiêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi uề. Có thể nói, cảnh và người ở Việt Bắc mang thiên hướng hài hòa, con người và thiên nhiên nơi đây có sợi dây giao kết, không thể tách rời. Thiên nhiên đem tới đời sống ấm no cho con người, ngược lại con người trong mối quan hệ ứng xử với thiên nhiên cũng dịu dàng và gắn bó vô cùng. 73 ======= PAGE 75 ======= Người đọc được đi qua hai vùng không gian khác nhau, nơi Việt Bắc - nơi Tây Bắc, tuy nhiên ta dường như vẫn nhầm lẫn bởi sự giống nhau của cả hai, bởi đều là hai nơi vừa hùng vĩ, tráng lệ vừa nên thơ, ngọt ngào. Nỗi nhớ còn gieo rắc trong lòng độc giả hình bóng về con người ở hai miền đất này. Ở Tây Tiến, tác giả Quang Dũng ấn tượng hơn cả với hình ảnh “em” trở đi trở lại trong bài thơ, đại điện cho nhân dân nơi đây: Nhớ ôi Tâu Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Đà: Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e Ấp Nhạc uề Viên Chăn xâu hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấU Có thấy hồn lau nẻo bên bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Những chàng lính trẻ trong binh đoàn Tây Tiến quyến luyến trước vẻ đẹp tâm hồn đầy dịu đàng, thơm thảo của nhân dân Tây Bắc. Họ cùng đắm say trong đêm lửa trại, chung vui với nhau để xoa dịu những mệt mỏi sau một chặng đường hành quân dài đẳng đặc, vượt qua biết bao núi đèo trắc trở. Hình ảnh “đáng người trên độc mộc” đã in hẳn trong tâm trí họ về một đáng hình thân thương mà nay đã thật xa vời. Trong khi đó, người ra đi ở bài thơ Việt Bắc lại khắc khoải trong lòng những ân tình, thủy chưng của con người luôn mang màu áo chàm giản dị, thân thương: Thương nhau, chia củ sẵn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Nhớ người mẹ nắng cháu lưng Địu con lên râu, bẻ từng bắp ngô. Nhớ sao lớp học ¡ tờ Đồng khuwa đuấc sáng những siờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Lẻ ======= PAGE 76 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Gian nan đời uẫn ca 0ang núi đèo. Nhớ sao tiếng mỗ rừng chiều Chàu đêm nện côi đều đều suỗï xa... Hình ảnh con người trong nỗi nhớ ở bài thơ này so với Tây Tiến có vẻ được khắc họa một cách rõ nét hơn. Họ chăm sóc, san sẻ cho người lính từng miếng cơm, manh áo. Người mẹ miền núi bỗng nhiên trở thành “người mẹ” của nhiều chiến sĩ. Những lớp học bình dân học vụ, những buổi liên hoan, những hôm thư thả ngắm núi rừng lúc chiều tàn luôn thắm đượm linh hồn người dân nơi đây. Chẳng vậy mà nhà thơ Tố Hữu đã chuyển hóa ngòi bút của mình thành một cây vẽ, phác họa lên bức tranh tứ quý để khắc tạc vẻ đẹp của cảnh và người nơi Việt Bắc thân yêu: Tñ tề, mình có nhớ ta Ta tề, ta nhớ những hoa cùng người. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đào cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người ñan nón chuốt từng sợi giang. V¿ kêu rừng phách đổ uàng Nhứ cô em gúi hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chưng. Tựu chung lại, nỗi nhớ về con người và thiên nhiên ở những vùng đất đã trôi xa trong hai thi phẩm trên có những điểm giống và khác. Cả hai bài thơ đã đóng góp phần lớn giá trị vào kho tàng văn học nước nhà, đặc biệt là văn học thời chiến và sẽ mãi mãi lưu dấu trong lòng bạn đọc về khúc ca đắm say của nỗi nhớ. Thực hiện yêu cầu sau: Câu 1: Hãy phân tích thao tác, cấu trúc, nội dung của bài làm mẫu trên ở cột bên phải. Câu 2: Bạn có thấy cách triển khai các luận điểm, luận cứ của bài mẫu hợp lí hay không? Nếu được chỉnh sửa và biên tập, bạn sẽ thay đổi điều gì? Câu 3: Ở bài làm mẫu, người viết có trình bày thiếu hoặc chưa đủ thông tín nào được đề cập trong dàn ý hay không? Hãy bổ sung thêm nếu có. 75 ======= PAGE 77 ======= 3. Thực hành viết Đề bài luyện tập: Viết một bài văn 600 chữ để so sánh, đánh giá về hình tượng người lính trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu và Tâu Tiến của Quang Dũng. (Nhóm biên soạn bộ sách “Đi kiếm mình nơi thế gian rộng lớn” đồng tình và xin được học hỏi với các bước viết bài văn dạng đề so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ ca của các tác giả bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống”) 3.1. Chuẩn bị viết ©_ Trước hết, cần xác định được những cơ sở để triển khai các nội dung so sánh, gắn với đặc trưng của thể loại thơ (đề tài, phong cách sáng tác, bút pháp nghệ thuật, ...). Từ những cơ sở đã xác định, cần lựa chọn các bài thơ tiêu biểu với những điểm tương đồng và khác biệt có ý nghĩa. «_ Phạm vi so sánh, đánh giá có xu hướng mở và linh hoạt. Hai bài thơ đó có thể của hai tác giả học của một tác giả. Ở đây là hai bài thơ của hai tác giả cùng thời. e _ Xác định được các bình diện cần so sánh, đánh giá: đối tượng trữ tình, chủ thể trữ tình, cảm hứng sáng tác, bối cảnh ra đời, bút pháp nghệ thuật,... Ở đề này bạn cần xác định được đối tượng cần so sánh, đánh giá là hình tượng người lính trong hai bài thơ và biểu hiện của nó thông qua hình thức nghệ thuật. 3.2. Tìm ý, lập dàn ý a. Tìm ý Dựa vào yêu cầu của kiểu bài, định hướng từ bài viết tham khảo và đề tài đã xác định, bạn có thể tự đặt các câu hỏi sau để tìm ý: 1. So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ dựa trên cơ sở, mục đích nào? Cần nhớ, việc xác định cơ sở, đầu mối để so sánh, đánh giá dựa trên nội dung (hiện thực đời sống, tư tưởng, tình cảm của tác giả,...) và hình thức nghệ thuật của các tác phẩm (thể loại, ngôn ngữ, kết cấu, giọng điệu, hình ảnh, chỉ tiết, thủ pháp nghệ thuật,...). Chẳng hạn, ở bài viết mẫu, người viết so sánh mạch cảm xúc về nỗi nhớ xuyên suốt trong hai bài thơ Tây Tiến và Việt Bắc ở cả hai bình diện là nội dung miêu tả (cảnh sắc và con người) và cách thể hiện (chọn hình ảnh, âm thanh, ngôn ngữ trong sáng,...). Vì vậy với đề bài trên, bạn cần xác định cơ sở so sánh là hình tượng người lính qua hai bài thơ Việt Bắc và Tây Tiến trên cả hai bình điện nội dung và nghệ thuật. 2. Điểm tương đồng giữa hai tác phẩm thơ là gì? Ở bài viết tham khảo, người viết nêu ra điểm giống nhau trong cảm hứng nỗi nhớ của hai bài thơ trên phương diện, khía cạnh là đối tượng của nỗi nhớ - cảnh sắc và người dân. Vì vậy, với đề này, bạn thử đọc kĩ hai tác phẩm và tìm ra điểm chung, có thể tham khảo gợi ý sau: tỉnh thần chung của người lính (tươi vưi, hào hùng, lạc quan,...); lí trởng cao dđiẹ 76 ======= PAGE 78 ======= lập U1 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? của người linh (quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, khát vọng về một tương lai rực rỡ của đất nước,...); tình cảm của người lính với nhau và với nhân dân (tin yêu, đùm bọc, sẻ chia, gắn bó, gần gũi,...);... 3. Điểm khác biệt giữa hai bài thơ là ei? Ở bài viết mẫu, tác giả đã làm sáng tỏ nét riêng nhất trong nỗi nhớ của chủ thể trữ tình trong cả hai bài thơ (khác về tính chất, góc nhìn, ...). Vậy nên với đề bài này, bạn cần chỉ rõ và phân tích được điểm khác biệt giữa hai bài thơ khi miêu tả, thể hiện về hình tượng người lính. Có thể tham khảo những gợi dẫn sau: người lính Tây Tiến hầu hết là những sinh viên đại học quyết tâm tạm biệt giảng để ra đi cứu nước => năng lượng tươi trẻ, lãng mạn, tình tứ,...; người lính Việt Bắc là những cán bộ, chiến sĩ cách mạng với tâm thế quyến luyến, bịn rịn khi chia ly “Thủ đô gió ngàn” => day dứt, ân tình, thủy chung,... Khác biệt về nghệ thuật có thể kể đến: Quang Dũng - hồn thơ lãng mạn, phóng khoáng, thể thơ bảy giàu tính tự sự, chất chứa cảm xúc; Tố Hữu - cây bút trữ tình, chính trị, thể thơ lục bát thân thuộc của dân tộc,... 4. Yếu lố, phương tiện nào dẫn tới những điểm gặp sỡ uà khác biệt của hai bài thơ? Bạn có thể bám vào thời đại ra đời, bối cảnh xã hội, trào lưu sáng tác của hai bài thơ để lấy làm cơ sở tìm ra điểm chung và chú ý tới hoàn cảnh sáng tác, tư tưởng, thông điệp, quan điểm nghệ thuật, phong cách sáng tác của tác giả và tác phẩm để từ đó tìm ra đầu mối cho sự khác biệt. Ở đề này, yếu tố dẫn tới điểm chung của hai bài thơ là thời đại ra đời - cuộc kháng chiến chống Pháp, đều chịu sự chỉ phối, dẫn đường của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và đường lối văn nghệ của Đảng nói riêng. Điểm khác biệt có thể để ý là do phong cách sáng tác của hai tác giả, tính chất của đối tượng trữ tình: Tây Tiến mang âm hưởng bi tráng, Việt Bắc đậm đà tính trữ tình, là khúc hùng ca quyện hòa với khúc tình ca. 5. Cầm đánh giá như thế nào tề giá trị, đóng góp của mỗi bài thơ? Thông qua so sánh, bài viết tham khảo đã khẳng định một cách chung nhất về vị trí, sức sống của hai bài thơ khi lấy cảm hứng nỗi nhớ. Ở đề này, bạn cũng cần khẳng định được một cách cụ thể về vị trí, giá trị và sức hấp dẫn của cả hai bài thơ khi viết về hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. b. Lập dàn ý Từ định hướng tìm ý đã nêu trên, bạn cần xem xét, sắp xếp lại hệ thống ý thật hợp lí để có dàn ý hoàn chỉnh. a. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về hai tác giả, tác phẩm thơ và nêu cơ sở của việc chọn lựa để so sánh, đánh giá. b. Thân bài: Có vô số cách trình bày nội dung so sánh, đánh giá. Bạn cần linh hoạt trong việc lựa chọn cách trình bày phù hợp với hiểu biết và hứng thú của bản thân, điêu này sẽ góp phần quan trọng vào chất lượng của bài viết. Có thể triển khai, trình bày các nội dung So sánh, đánh giá theo những cách tiêu biểu sau: ======= PAGE 79 ======= Các cách triển khai, trình bày nội dung, so sánh, đánh giá Lần lượt phân tích từng bài thơ, sau đó chỉ ra điểm tương đồng và những điểm khác biệt, lí giải nguyên nhân của sự tương đồng và khác biệt ấy; đồng thời đánh giá về giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ. Phân tích bài thơ thứ nhất theo các phương diện đã xác định, khi phân tích bài thơ thứ hai sẽ so sánh với bài thơ thứ nhất theo từng phương diện và lí giải nguyên nhân của những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai bài thơ, từ đó, đánh giá về giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ. So sánh lần lượt các phương điện đã lựa chọn đối với hai bài thơ, chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt; lí giải nguyên nhân của sự tương đồng và khác biệt đó; đánh giá về giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ từ các nội dung so sánh. Ưu điểm và nhược điểm Cách này dễ làm nhưng nhiều khi bị trùng lặp ý và mục đích so sánh không được làm nổi bật. Cách này đễ thực hiện và tránh sự trùng lặp, thể hiện được thao tác so sánh, nhưng mạch so sánh khi trình bày bài thơ thứ nhất dễ bị chìm ẩn. Cách này làm nổi bật được tính chất so sánh nhưng để làm đứt gãy tính liên kết, chỉnh thể của mỗi bài thơ, đòi hỏi người viết phải có đủ khả năng tư duy tổng hợp và lập luận chặt chẽ, có sự tỉnh nhạy trong việc phát hiện vấn đề. c. Kết bài: Khẳng định ý nghĩa của việc so sánh, đánh giá; nêu cảm nhận và ấn tượng của bản thân về các bài thơ. 78 3.3. Viết s_ Tiến hành viết triển khai theo định hướng tm ý và bồi đắp thêm cho dàn ý ở trên. ® Thể hiện khả năng cảm thụ văn học tỉnh tế trong quá trình phân tích đi đôi với so sánh; lựa chọn dẫn chứng phù hợp, tiêu biểu, tránh trùng lặp cho từng nội dung, phương điện so sánh, kết hợp với ý kiến lí giải, đánh giá; diễn đạt mạch lạc, logic sáng ý, có cảm xúc. *® - Có những dấu ấn cá tính sáng tạo của bản thân trong quá trình phân tích, so sánh về những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai bài thơ (qua những phát hiện sâu sắc hoặc qua cách diễn đạt độc đáo) để tăng tính thuyết phục và hấp dẫn cho bài viết. ======= PAGE 80 ======= xụp U1 - IEOđ1 Ktđ rực rỡ bao nhiêu? E. LUYỆN TẬP I. Đọc văn bản, trả lời câu hỏi NHỮNG NGƯỜI ĐI TỚI BIỂN (Trích) Thanh Thảo Chúng tôi không mệt đâu Nhưng cỏ sắc mà Ñm quái Tuổi hai mươi thằng em tôi sững sờ một cánh chìm mảnh như nét uẽ Nhiều đổi thay như một thoáng mâu Khi chúng tôi nằm nó uẫn ngồi nguyên đó Ngậm im lìm một cọng cỏ mat... Những dấu chân lùi lại phía sau Dấu chân in trên đời chúng tôi những tháng năm trẻ nhất Mười tám hai mươi sắc như có. Dày như cỏ Yếu mềm uà mãnh liệt như có Cơn gió lạ một chiều không rõ rệt Hoa chuẩn bị âm thầm trong đất Nơi đó nhất định mùa xuân sẽ bùng lên Hơn một điều bất chợt Chúng tôi đã đi không Hêc đời mình (Những tuổi hai mươi làm sao không Hếc) Nhưng ai cũng tết tuổi hai mươi thì còn chỉ Tổ quốc? Cỏ sắc mà ấm quá, phải không em... ', : mo. ======= PAGE 81 ======= Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm: Thanh Thảo tên khai sinh là Hồ Thành Công, năm năm 1946, quê ở Quảng Ngãi. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông xung phong vào chiến trường miền Nam chiến đấu và hoạt động cách mạng. Thanh Thảo là cây bút đa tài với ngòi bút sắc sảo trong mảng báo chí, tiểu luận phê bình và nhiều thể loại khác, tuy nhiên đóng góp gây tiếng vang lớn của ông vẫn là thơ ca. Thơ Thanh Thảo chứa đựng nhiều chiêm nghiệm về các vấn đề xã hội đương đại, đặc biệt thể hiện nỗ lực cách tân thơ ca, tìm kiếm những cách biểu đạt mới thông qua hình thức câu thơ tự do, nhịp điệu tỉnh nghịch, liên tưởng thú vị, có sức gợi,... Gia tài văn học của Thanh Thảo có thể điểm qua: Những người đi tới biển (1977), Dấu chân qua trắng cỏ (1978), Những ngọn sóng mặt trời (1981), Khôi ouông ru-bích (1985), Từ một đến một trăm (1988),... Nhữmg người đi tới biển được sáng tác năm 1977, là bản trường ca cất cao tiếng : hát ngợi ca, hùng tráng về tuổi trẻ, chiến tranh và hình tượng người lính. Tác phẩm -v gồm bốn chương, mỗi chương có một tiêu đề riêng với từng đoạn, từng khúc ca. Đoạn trích trên là Khúc bảy trong bản trường ca hào hùng ấy, mang đậm khí thế sử thi của lớp trẻ thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1: Bạn hãy xác định đối tượng trữ tình và cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ trên. Câu 2: Phép tu từ nào được sử dụng trong hai câu thơ đầu? Hãy gọi tên, chỉ ra biểu hiện và phân tích tác dụng của phép tu từ ấy. Câu 3: Theo bạn, hình tượng tuổi trẻ trong khổ thơ thứ hai có đang trái ngược với hình tượng ấy ở khổ thứ ba? Hãy trình bày ý kiến của mình bằng sơ đồ tư duy. Câu 4: Ba dòng thơ sau gợi cho bạn điều gì về mối quan hệ giữa cá nhân với Tổ quốc, đặc biệt là tuổi trẻ với vận mệnh của đất nước? cưng tôi đã đi tông h tiếc đời mình ======= PAGE 82 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? 1L. Đọc, nghe, xem: Nâng cao cảm thụ Mùi có cháu là bộ phim điện ảnh Việt Nam lấy đề tài chính là chiến tranh và tuổi trẻ với vận mệnh của đất nước. Đạo diễn Nguyễn Hữu Mười và biên kịch/nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm đã lấy bổi cảnh chính của phim là mùa hè đỏ lửa năm 1972 trong trận chiến tại Thành cổ Quảng Trị. Bộ phim men theo bước chân của bốn nhân vật chính là Hoàng, Thành, Thăng và Long. Họ là sinh viên trường Đại học Tổng hợp Hà Nội quyết tâm đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, gác lại sách bút, bỏ lại sau lưng bao giấc mộng của tuổi trẻ để lên đường đến Thành cổ Quảng Trị đầy khói lửa. Bộ phim lấy điểm nhìn trần thuật là nhân vật Hoàng khi ông đang Tần về kí ức những năm tháng oanh liệt, hào hùng của lớp trẻ thế hệ mình và của cả dân tộc. Bộ phim để lại nhiều ẩn tượng trong lòng khán giả và giới chuyên môn khi xuất sắc đoạt giải Cánh diều vàng cho hạng mục Phim điện ảnh xuất sắc nhất. Hãy cùng cô Sương Mai xem và cảm nhận về hình tượng người lính, đặc biệt là tỉnh thần thời đại của thế hệ trẻ trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc bạn nhé. Tác phẩm cũng là một “khúc hùng ca lịch sử” đáng trân trọng, sẽ đem đến cho ta nhiều bài học đáng quý trên chặng đường trưởng thành. Bạn có thể quét mã QR sau để lắng nghe một video cô Sương Mai từng chia sẻ cảm nhận cá nhân về tác phẩm hào hùng này nhé. 81 ======= PAGE 83 ======= II. LUYỆN TẬP VIẾT Câu 1: Sau khi đọc hai bài thơ Giá từng thước đất của Chính Hữu và Khoảng trời, bg bom của Lâm Thị Vỹ Dạ, bạn hãy viết một bài văn khoảng 600 chữ về tỉnh thần chung của thế hệ trẻ trước bối cành lâm nguy của Tổ quốc. Câu 2: Hãy rút ra một bài học có ý nghĩa đối với chính bản thân mình thông qua bộ phim Mùi cỏ cháy, từ đó viết một đoạn văn khoảng 300 chữ để bình luận về bài học đó trong thời hiện đại. 82 ======= PAGE 84 ======= RT Tà (Thú Ÿ c CỒ: Chạam vào thế øian rực rõ (Tác phẩm văn học) ======= PAGE 85 ======= YÊU CẦU CẦN ĐẠT »_ Nhận biết được một số đặc điểm cơ bản của phong cách cổ điển, hiện thực và lãng mạn qua các tác phẩm tiêu biểu đã học. s© Phân tích được các chỉ tiết tiêu biểu, đề tài, câu chuyện, sự kiện, nhân vật và mối quan hệ giữa chúng trong tính chỉnh thể của tác phẩm; đánh giá được vai trò của những chỉ tiết quan trọng trong việc thể hiện nội dung văn bản. e_ Nhận biết, thông hiểu và vận dụng ngôn ngữ trang trọng và ngôn ngữ thân mật khi giao tiếp. «- Viết được văn bản nghị luận so sánh hai tác phẩm văn xuôi: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký,... ®_ Cảm nhận được sự tác động của thế giới đối với nội tâm của mỗi người; từ đó, khơi gợi khao khát được trải nghiệm, dấn thân để trưởng thành. A. KIẾN THỨC NGỮ VĂN Văn học hiện thực bao gồm những sáng tác được viết theo phong cách tả thực, phản ánh chính xác, tỉ mủ cuộc sống, môi trường, xã hội. Hiện thực mà tác phẩm phản ảnh có thể ở quá khứ, hiện tại hoặc có những tác phẩm dự đoán cả tương lai. Đề tài của văn học hiện thực thường là những sự kiện xảy ra trong cuộc sống, cốt truyện thường phản ánh những mâu thuẫn của đời sống thường nhật, nhân vật có thể mang tính điển hình cho một hoàn cảnh, tính cách, số phận trong xã hội. Văn học lãng mạn bao gồm những sáng tác được viết theo phong cách lãng mạn - đề cao trí tưởng tượng, cảm xúc của con người. Các nhà thơ, nhà văn lãng mạn thường đề cao sự sáng tạo vượt bậc, phá vỡ mọi quy phạm để thể hiện cái “tôi” cá nhân. Văn học hiện thực và văn học lãng mạn trở thành hai trào lưu chỉnh của văn học viết giai doạn đầu thế ki XX đến Cách mạng tháng Tám. Tiêu biểu cho xu hướng văn học hiện thực, ta có thể kể đến Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng,... 84 ======= PAGE 86 ======= lập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Bên cạnh đó, văn học lãng mạn lại chiếm ưu thế trong phong trào Thơ Mới với sự xuất hiện của những cái “tôi” cá nhân độc đáo như Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh,... VẬN DỤNG Hãy kể tên một vài tác phẩm văn học thuộc trường phái hiện thực và lãng mạn và em biết. Em yêu thích đọc các tác phẩm theo phong cách hiện thực hay lãng mạn? Vì sao? Câu hỏi này hoàn toàn hướng đến nhu cầu tiếp nhận và sở thích cá nhân của từng bạn đọc, không có lựa chọn nào là sai, chỉ là góc độ tiếp nhận riêng tư của mỗi người. Em đừng ngần ngại đưa ra câu trả lời riêng của bản thân mình nhé. Tính chỉnh thể của tác phẩm: Một tác phẩm văn học sẽ rất khó để lại ấn tượng cho người đọc nếu như các thành tố của nó được thể hiện một cách rời rạc, thiếu sự bổ trợ qua lại. Tính chỉnh thể của tác phẩm thể hiện ở việc các khía cạnh của tác phẩm (chủ đề, đề tài, cảm hứng, kết cấu, sự kiện, cốt truyện, ...) tác động qua lại với nhau, tạo nên sự hài hoà, thống nhất giữa hình thức và nghệ thuật trong tác phẩm. Tình huống truyện là những sự kiện, hoàn cảnh đặc biệt, mang tính tạo ra vấn đề cho câu chuyện. Tình huống truyện chính là bàn đạp tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn cho truyện kể, là bước ngoặt giúp cho nhân vật nhân vật thể hiện những nét đặc sắc trong tâm lý, hành động; và cũng là cơ hội để tác giả gửi gắm nhiều thông điệp đa dạng vào tác phẩm. Có ba loại tình huống truyện chính: « __ Tình huống tâm lý: Là tình huống được đặt ra nhằm làm nổi bật tâm lý của nhân vật. Trone truyện Higắn “Vợ nhặt", Kim Lân đã đặt ra tình huống Tràng dẫn người uợ nhật ra mắt bà cụ Tứ để giúp người đọc cảm nhận rõ nét sự phức tạp trong tâm lý của người mẹ già. Đón nhận người con dâu mới trong hoàn cảnh đói khổ ấy, người mẹ đường như 0ừa mừng, pừa Hủi; uừa thương con trai cũng uừa xót xa cho thị. Tình uống nàu cũng giúp ta chạm được uào thế giới nội tâm của từng nhân tật, hiểu rõ những uẻ đẹp phẩm chất bình dị, cao quý của họ mà đôi khi cuộc sống khốn khó đã che khuất đi. s Tình huống hành động: Là tình huống được sử dụng nhằm thúc đẩy nhân vật hành động. ======= PAGE 87 ======= Ví dụ: Trong truyện “Vợ chồng A Phú”, nhà oăn Tô Hoài đã đặt ra tình huống MỊ nhìn thấu giọt nước mắt lấp lánh bò xuống hai hôm má xám đen của A Phủ để giúp Mị thức tỉnh, từ đó dũng cảm cắt dâu trúi cứu người oà cứu mình. - __ Tình huống nhận thức: Là tình huống mà tác giả cài cắm vào để giúp nhân vật có thêm nhận thức mới hoặc thay đổi nhận thức cũ, từ đó rút ra những quy luật của cuộc sống. 'TRÒ CHƠI (Trong lớp học livestream của Học Văn Cô Sương Mai/ hoặc các bạn tự tổ chức cùng với bạn bè trên lớp của mình) Hãy kể lại bằng lời hoặc diễn xuất lại một tình huống truyện trong một tác phẩm mà em ấn tượng, các bạn sẽ đoán xem đó là tác phẩm nào, và tình huống trên là tình huống tâm lý, nhận thức hay hành động. Trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà uăn Nguyễn Minh Châu đã đặt ra tình huống nhận thức tình tế, sâu sắc, tạo cơ hội để độc giả cùng đồng hành uới chặng đường “0ỡ lễ” của nhân oật Phùng. Khi chứng kiến con thuyền ngoài xa, Phùng nhận ra “cái đẹp chính là đạo đức”. Nhưng khi còn thuyền ào gần, Phùng lại bàng hoàng khi đằng sau “cảnh đắt trời cho” ấU lại là một hiện Huực phữ phàng: chồng đánh uợ, oợ cam chịu, con đánh cha, mẹ lạu con khẩn khoản... Hình ảnh ấy tác động mạnh mề uào nhận thức của anh uề cái đẹp uà cuộc đời. Sau khủ lắng nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại toà án, Phùng lại hiểu thêm uề sự khuất lấp của cái đẹp trong những điều ngỡ nh tô cùng xấu xí, qua đó càng thêm thẩm thía 0ề mối quan hệ giữa nghệ thuật — cuộc đời oà sử mệnh của người nghệ sĩ chân chính. Như uậu, hành trình của Phùng dược đào sâu uào khía cạnh “nhận thức” của nhân uật. Cốt truyện là một chuỗi các sự kiện, hành động, mà trong đó mỗi sự kiện lại có sự ảnh hưởng tới các sự kiện tiếp theo. Thông qua cốt truyện, người đọc sẽ lĩnh hội rõ nét điển biến câu chuyện, từ đó rút ra được những đặc sắc trong chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Cốt truyện có hai loại: cốt truyện đơn tuyến và cốt truyện đa tuyến (theo hướng truyện lồng truyện). Tuy nhiên, có một số tác phẩm không cần có cốt truyện nhưng vẫn thể hiện rõ nét những giá trị về hình thức và nội dung, ví dụ như “Hai đứa trẻ” và “Dưới bóng hoàng lan” của Thạch Lam. Các tác phẩm của nhà văn Thạch Lam thường không có cốt truyện. 86 ======= PAGE 88 ======= 1U U1 - IYgUtt RI@ rực r0 00 nhiêu? không chú trọng sự việc, tình tiết, hành động; mà đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật nhiều hơn. Diễn biến tâm lý nhân vật là sự chuyển động, thay đổi hoặc sự thể hiện một cách sống động của thế giới nội tâm bên trong nhân vật. Diễn biến tâm lý của nhân vật có thể được thể hiện thông qua lời thoại hoặc lời kể của nhà văn (phụ thuộc vào điểm nhìn của câu chuyện). Đối với truyện được kể theo ngôi thứ ba toàn trị, diễn biến tâm lý của các nhân vật thông thường sẽ được thể hiện một cách tương đổi rõ ràng và đồng đều nhau. Ngược lại, truyện được kể theo ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba hạn tri thì diễn biến tâm lý của nhân vật chính sẽ được ưu tiên khắc hoạ hơn các nhân vật khác. Thế giới nội tâm của nhân vật là toàn bộ những tính cách, suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật được nhà văn khắc hoạ rõ nét trong tác phẩm. Thông qua thế giới nội tâm đó, người đọc sẽ hiểu hơn về nhân vật đang được kể; đồng thời có sự kết nối giữa nhân vật đó với chính mình hoặc người khác trong cuộc sống. “Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa bùng lên, cùng lúc ấy Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mất đêm nay như thế: Nhưng Mị tẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết ñứng đấu, cũng thế thôi. Mị nẫn trở dậu, uẫn sưởi, Mị chỉ biết, chỉ còn ở uới ngọn lửa, Có đêm A Sử chợt về thấy Mị ngồi đấu, A Sử ngứa Iny đánh Mị ngã xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau MỊ dẫu ra sưởi như đêm trước.” (Trích “Vợ chồng A Phú, Tô Hoài) Phân tích cách nhà văn khắc họa diễn biến tâm lý, từ đó tạo cơ hội để độc giả bước chân vào thế giới nội tâm của nhân vật Mị: Sơ lược diễn biến trước đó: Mị là một cô gái trẻ trung, yêu đời, hiếu thuận, nhưng lại bị bắt về nhà thống lí Pá Tra làm vợ A Sử - con trai thống lí, trở thành một nàng dâu gạt nợ để “thế thân” cho món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ mình. Lòng cô đần tàn lụi và héo úa trong căn nhà lạnh lẽo, tàn độc ấy. Cô không còn khao khát và những mong cầu tự do, cuốn mình vào với vòng lặp đầy khốn khổ của một nô lệ cho nhà giàu. Thế nhưng, tiếng sáo gọi bạn tình đêm mùa xuân năm đó đã đánh thức sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong cô gái trẻ. Cô đần nhận thức lại được giá trị của bản thân và phần nào mong mỏi được tận hưởng cuộc sống, được sống trọn vẹn với tuổi trẻ của mình. Nhưng do sức mạnh của Cường quyên, thần quyền, Mị không dám nghĩ đến việc bỏ trốn. Cô định đi chơi ngày Tết đã ngay lập tức bị A Sử trói đứng vào cột cả đêm dài. Đến mùa đông, Mị chỉ biết hơ tay sưởi lửa để lòng mình không “chết héo” thêm một lần nữa mà thôi... Phân tích tâm lý nhân vật: Lúc đầu, Mị hoàn toàn không quan tâm đến cảnh ngộ trớ trêu, éo le của A Phủ. Cô hoàn toàn dứng dưng với người đàn ông xa lạ đang bị trói đứng vào cột đó: “pân thản nhiên thôi 87 ======= PAGE 89 ======= lửa, hơ tay”, “Nếu A Phủ là cái xác chê! đứng đấu, cũng thế thôi.” “MỊ uẫn trở dậu, uẫn sưởi, Mi chỉ biết, chỉ còn ở uới ngọn lửa.” Dường như, ở lâu trong nhà thống lí, Mị không chỉ quen với cái khổ, mà còn quen với việc cái ác diễn ra một cách nghiễm nhiên... A Phủ đâu phải nạn nhân duy nhất trong căn nhà tàn độc ấy, A Phủ đâu phải người dân thấp cổ bé họng, duy nhất bị nhà thống lí tước đoạt đi quyền tự do và hành hạ một cách đã man. Chắc hắn, Mị đã nhiều lần chứng kiến cái ác trong căn nhà lạnh lẽo ấy rồi... Vì thế, cô đần quen với sự hiện điện của nó từ lúc nào không hay. Bản thân Mị cũng đang bế tắc và mắc kẹt trong nhà thống lí Pá Tra. Chính cô còn chưa thể tự cứu được mình. Làm sao cô có đủ tâm trí và bản lĩnh để quan tâm đến một người xa lạ khác? Lúc này, Mị chỉ tập trung vào thói quen thối lửa hơ tay. Ưu tiên duy nhất của cô ở thời điểm đó là giữ cho ngọn lửa của hy vọng đang le lói nơi tâm hồn không bị dập tắt. Vì thế, ngọn lửa là tất cả với Mị, là điều duy nhất Mị có thể nhận thức một cách rõ ràng. “Af; chỉ biết, chỉ còn ở uới ngọn lửa.” Như nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiết thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng từng “biện hộ” cho chồng mình trước Tòa, rằng hắn đánh mụ đến vậy là bởi “thấy khổquá”. Cái cay đẳng của cuộc đời đã che lấp đi thiện tâm bên trong những con người khốn khổ ấy ư? Phải chăng, cái khổ đã khiến con người ta đần trở nên vô tâm, vô tình hơn? Phải chăng, chính cái khổ lại là “rnột lời biện hộ” thật xót xa cho cái ác đang đần đần hình thành? Phải chăng, vì quá khổ sở rà người chấp nhận sống chung với cái ác từ lúc nào không hay...? Giống như ông giáo trong truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn Nam Cao đã từng ngẫm nghĩ: “Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất... ” Có lš, Mị cũng đang có “cái chân đau” như thế, bản thân cô còn “khập khiếng bước đi”, chưa tự cứu được chính mình, làm sao cô có thể giúp được một người khác đây? 88 ======= PAGE 90 ======= Cù. Áể này, được đặt tên, (à. ` Fan vào tÑhế gian vực vỡ” m có duy ngÑ? gà &Ñ¿ đạc tên chà, đổ nàu,? Thể giác ngaàt bứa có g2 Kục vẽ đốn và daa? Ta đầm thế nào đ? chạm, vàa nó? đẩy liên quuết. la câ» cñủ, động ÉÁÑÁm phá, nÏưềng 6aa Éa th2a càng nàng hừnẰ, ảnÑ, dụ uộÉ, can nguồt mà màn Ñöu duuôx Áược gặp gỡ mày ngày. (á (hổ Éằng nàng cÑuyốc Ất, nòng cuậo phuâu Ñav để &Ñh. ám, phá đó đâu. á (hở &ằng những cuộc chuyện thà, nÂhàng mất quan Ñhệ, (á thể ÚÀng uúệc tuuềng thức nghệ Ruật Chúa, văn kạc dẽ em. Ẩỡu cÑo ta cứ hật Äể chạm, vàa thể cá 6Á lấy cơ kột ấy ñay ÉÁhảng mà (Ñôi Ì¿ cáo uăn Éản thuậc cÑù đệ nàu, kây (Á« ùn, dưng, vể }ÃZ gian lực về” mà nhường nguài cẩm, &dk đã gø tà Ấố cÍáng ta nÃó ======= PAGE 91 ======= B. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN BẢN 1 , F.4 XỬ TUYẾT (Trích) Kmtuabntn Yasunari TRƯỚC KHI ĐỌC 1. Giới thiệu chung Xứ tuyệt là một tiểu thuyết ngắn của nhà văn Kawabata, kể về anh chàng Shỉ- mamura —- một người giàu có, đã kết hôn -— và tình yêu của anh với một cô gái Gei- sha trẻ tuổi Komako. Komako mang vẻ đẹp nữ tính, trong sáng. Sau khi tham gia các bữa tiệc, Komako tìm đến Shimamura vào ban đêm để trò truyện, ở bên cạnh anh. Dần đần, Komako đã đem lòng yêu anh, và Shimamura cũng thường xuyên đến xứ tuyết để gặp lại Komako. Song song với đó, Shimamura còn có mối quan hệ thân mật với Yoko - một thiếu nữ mang vẻ đẹp truyền cảm, trong thanh,... Từ đó, Shimamura ở giữa tình yêu giữa Komako và Yoko. Dày vò trong sự lựa chọn và tội lỗi, Shimamura đự định kết thúc mọi thứ, nhưng một trận hoả hoạn ở nhà kho gần chỗ anh đã bóc cháy đữ dội. Yoko đã chết trong đám cháy đó, gương mặt vẫn thanh tú, trong sáng. Komako đau đớn đến mức hoá điên. Tác phẩm kết thúc bằng cảm giác hụt hãng của Shimamura khi đối diện với khung cảnh đau thương và nhìn lên bầu trời, cảm thấy những vì sao như rơi vào lòng của chàng. Tác phẩm có hai phần, đoạn trích sau nằm ở phần II, khi Shimamura lang thanh quanh xứ tuyết và có dự định cắt đứt duyên nợ với Komako và Yoko. 2. Câu hỏi gợi mở a. Trong hình dung và hiểu biết của em, thiên nhiên ở những vùng xa xôi, hẻO lánh như miền núi cao hay những nơi hoang vu, lạnh lẽo... có gì khác biệt so với thiên nhiên thành thị đông đúc, nhộn nhịp? b. Thiên nhiên có tác động đến tâm trạng của con người hay không? c. Hãy chia sẻ một lần thiên nhiên làm thay đổi nội tâm của em (nếu có). **Nếu chưa có, mong rằng em sẽ sớm có một trải nghiệm kết nối với thiên nhiên thật đáng nhớ theo những xúc cảm của riêng mình. ` mmmwmma.uaađ<ứốằ.. Ƒ—®e= ======= PAGE 92 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? ĐỌC VĂN BẢN xx+#* Qua khung cửa chưa kịp khép lại khi anh bước ra, Komako ngó trời. ~ Có lẽ tuyết sắp rơi, ~ cô nói, - thế là đã hết mùa lá phong. Rồi nàng cũng bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà, đọc trong đêm những câu thơ rút trong một vở kịch Kabuki: Chúng mình hòa uới núi nón Tuuết rơi. Những lá phong còn dau dưa. Cửa sổ khuôn vào màu bầu trời xám quánh những búi tuyết rơi thắng xuống như những đóa hoa đơn trắng trong sự yên tĩnh hài hòa và êm đềm, có chút gì siêu nhiên. Shi- rmnamura để cho hình ảnh đó xâm chiếm, tâm tư thì trống rỗng sau một đêm không ngủ. Các nghệ nhân tuồng Noh! đang khua trống con. Anh hoài niệm đến buổi mai tuyết rơi, vào những ngày cuối năm và mắt anh hướng tới chiếc gương. Những bông đơn trắng lạnh lẽo vẫn đang rơi vẽ lên những hào quang, nhảy múa quanh dáng của Komako, áo kimono? để mở, đang lấy khăn lau cổ. Một lần nữa, Shimamura ngây ngất ngắm làn da mát rượi, lành mạnh, trắng đến tỉnh khiết, gợi đến sự sạch bóng của những đồ giặt phơi ngoài trời. Không, đâu phải là ảo giác khi nghĩ rằng cô là một người đàn bà dễ bị xúc động bởi những câu nói tầm thường của anh. Chính điều ấy đã khiến lòng anh buồn thấm thía. Núi non vừa lúc trước có vẻ như bị đẩy đần xa bởi sắc màu ảm đạm của mùa thu, đã sống động và ngời sáng lên trong tuyết. Những cây bá hương? phủ một làn voan trắng mỏng nổi lên trên nền tuyết, dù không hề trộn vào nhau vẫn tạo thành một khối sẫm, mà cây nào cây nấy hiện ra với dáng nét riêng biệt rõ ràng. Thế là tuyết đã kéo ra từng sợi và cũng như chính tuyết đã đệt những sợi thành tấm vải. Rồi chính tuyết lại giặt tẩy cho nó sạch bong ra. Tất cả sự tạo thành, bắt đầu và kết thúc trong tuyết. “Vải chiJimi! chỉ sinh ra khi có tuyết, có thể nói, tuyết là mẹ đẻ của chỉjimi”, như ai đó đã viết trước đây lâu lắm. Bàn tay của những người đàn bà trong Xứ Tuyết này, làm việc triền miên trong những tháng dài tuyết phủ mùa đông, kéo sợi, dệt thành những tấm vải gai mỏng, thứ cây được 1. Tuồng Noh: một loại kịch ở Nhật Bản. 2. Kimono: trang phục truyền thống của đất nước Nhật Bản. 3. Cây bá hương: Cây tuyết tùng Liban, một loại cây lá kim thường xanh, có thể có độ cao lên đến 40m. 4, Vải chiJimi: loại vải truyền thống của người Nhật Bản, được dệt vào mùa đông để sử dụng vào mùa hè, thường được sử dụng làm chất liệu của trang phục kimono. 9% ======= PAGE 93 ======= thu hoạch từ những thửa ruộng chênh vênh đầu núi. Shimamura sành sỏi về loại vai ấy sục ñm trong các cửa hàng lâu đời ở Tokyo những miếng vải đã trờ thành khan hiếm, đế may những bộ kimono mùa hè. Mối quan hệ với giới múa đã giúp anh khám phá được cưa hàng chuyên may y phục cổ cho tuồng Noh và anh đã giao kèo với chủ Hệm phải may cho anh đầu tiên, khi anh có trong tay tấm vải chijïimi chính phẩm. Người ta kể lại rằng, xa xưa, vào địp hội chợ chijimi thường khai trương vào mùa xuân, lúc tuyết tan, chính là lúc người ta đỡ đi những cánh cửa số kép của mùa đông, người tử khắp nơi đổ xô tới để mua thứ vải nổi tiếng ấy. Những khách buôn giàu có ở các đô thị quan trọng như Edo, Nagoya hay Osaka, cũng đã giữ chỗ trước ở những quán trọ theo truyền thống. Các cô gái từ khắp nẻo của xứ sở, từ các lũng cao cũng trầy hội xuống đem theo sản phẩm lao động của sáu tháng cuối cùng trong năm; đem theo cả không khí của ngày hội, nườm nượp những sạp hàng vải chen với những mặt hàng khác, đủ loại, những hàng của các hội chợ, những trò diễn... trai gái chen chúc nhau từng đám, vào hội tưng bừng. Những mặt hàng vải trưng bày đều đính theo nhãn gì ghi tên và địa chỉ của cô gái đã đệt thành, bởi có một cuộc chấm giải để khen thưởng cho mặt hàng nào đẹp nhất. Đỏ cũng là một cơ hội để kén chồng. Những thiếu nữ, học dệt từ tấm bé, thường hoàn thành những sản phẩm tuyệt tác ở tuổi mười bốn đến hai mươi bốn. Tiếp theo, với hoa tay của mình, các cô sẽ tạo ra giá trị của vải chiJ]imi, mà thường phẩm chất đâu có được bằng nhau. Bởi thế sự thi tài đã xảy ra giữa các cô. Họ đồn nghệ thuật cho công việc đầy hứng thú và say đắm trong những tháng mà tuyết như đã giam lỏng họ, nghĩa là từ tháng mười, khi bắt đầu kéo sợi, cho đến tuần trăng thứ hai là tháng phải xong việc tẩy vải cho thật trắng trên những cánh đồng cỏ, những ô vườn phủ đầy tuyết. Một vài bộ áo kimono của Shimamura được may từ các tấm vải dệt do những bàn tay của các cô gái ấy, có thể từ giữa thế kỉ trước và anh vẫn có thói quen giữ những bộ áo cổ xưa, đã qua bao nhiêu hơi người, chẳng dễ dàng chút nào. Anh chỉ cần nghĩ đến công phu miệt mài lao động của những cô gái miền núi, tức thì anh phải cho đi tẩy chúng, theo đúng truyền thống, tận nơi xứ tuyết, nơi khai sinh ra loại vải quý và những cô gái đệt vải trình trắng đã sống. Chỉ riêng nghĩ đến sợi gai trắng, trải dài trên tuyết, hòa với tuyết để hồng lên dưới ánh mặt trời mọc, Shimamura đã có cảm giác được thanh lọc mạnh mẽ đến nhường nào. Không những anh tin chắc những bộ kimono của mình đã trút lại đây những vết bẩn, vết cáu nhơ của mùa hè, mà chính anh, chính con người anh cũng như được tắm gội. Nói cho ra nhẽ thì đó cũng là thứ tình cảm chủ nghĩa chẳng có gì là vững chắc, bởi lẽ anh đã đưa cho một hiệu giặt là ở Tokyo nhận giặt tẩy từ đầu, nên anh cũng chẳng lấy gì làm chắc chắn rằng những bộ kimono kỉa được tuyết tẩy trắng theo lối cổ truyền. Việc tẩy trắng bằng tuyết từ đời này sang đời khác vẫn do các thợ chuyên nghiệp đảm nhận: những người thợ đệt không làm việc này. Người ta tẩy trắng ngay khi vải chỉjim! 92 ======= PAGE 94 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? trắng đệt xong thành từng tấm, trong khi đó thì những vải màu được dệt màu ngay trên khung cửi, cho đến lúc hoàn thành cả tấm. Mùa tốt nhất để làm việc này là vào tháng giêng và tháng hai âm lịch. Đồng cỏ và vườn thời kỳ này đầy tuyết, chỗ nào cũng hình thành những xưởng giặt tẩy. Họ nhúng sợi hoặc vải trong một thứ nước tro một đêm. Sáng mai giũ trong nước cho thật sạch, người ta phơi vải suốt ngày trên tuyết, rồi lại cứ như thế, tiếp ngày này sang ngày khác. Theo sự khám phá của anh trong một cuốn sách vừa đọc gần đây, cái cảnh tẩy trắng vải bằng tuyết trọn vẹn, được ấp ủ trong ánh nắng hồng dịu của ban mai, đẹp đến không bút nào tả nổi: “Cư đân ở miền nam - tác giả viết tiếp - đều đổ đến để thăm”. Và khi màu trắng đã đạt đến mức hoàn hảo, thì xuân về: đó chính là ký hiệu riêng báo hiệu mùa xuân của Xứ Tuyết. Mà, trạm nước nóng lại ở ngay trên xứ sở của vải chijimi, phía xuôi của thác nước, nơi thung lũng bắt đầu trải rộng ra, gần đến nỗi, Shimamura tưởng ở ngay bên cửa số. Dọc theo chiều dài thung lũng, đọc những thôn xóm có họp hội chợ chijimi, nay đều thành nhà ga theo con đường xe lửa. Ở thời đại công nghiệp, đó vẫn là nơi nổi tiếng về vải sợi. Bởi chưa hề đến Xứ Tuyết vào giữa hè, mặc những bộ kimono gai mùa hè, hoặc giữa mùa đông, lúc thứ vải chijimi mà anh ưa thích được dệt thành, Shimamura chẳng đả động gì đến chuyện này với Komako. Liệu Komako có biết gì hơn anh chăng? Vả lại, Shimamura nào phải là loại người có sáng kiến đi nghiên cứu một thời kỳ của nghề dệt truyền thống trong dân gian. Nhưng khi anh nghe giọng Yoko làm sống lại bài hát thời thơ ấu trong lúc tắm, anh vụt có ý nghĩ các cô gái ở thời xa xưa, cùng một lúc, cũng cất tiếng hát trong lúc chăm chú vào công việc, khom mình trên khung dệt, đưa thoi chạy vun vút qua giữa hai làn sợi. Dường như giọng hát của Yoko bắt theo nhịp những động tác của các cô thợ dệt đang hiện ra trong sự tướng tượng của anh. Sợi gai của đất núi óng như một thứ tơ chế từ lông thú, chỉ có thể kéo sợi, chàng nghĩ, trong mùa ẩm ướt của tuyết vào mùa đông Xứ Tuyết với những đêm dài là mùa thích hợp cho các công việc của người thợ dệt. Và những người hiểu biết về thời cổ, thường hay giải thích rằng, đây là kết quả hài hòa của những luật trao đổi của ánh sáng và bóng đêm. Sự mịn màng đặc sắc của loại vải có được là nhờ dệt trong cái giá lạnh của mùa đông, lưu giữ đến tận cái nóng khắc nghiệt của mùa hè. Vẫn chính Komako, chính cô cũng được hình thành từ cái nguyên lý tạo hóa ấy: Komako, gắn bó với anh khá mãnh liệt với vẻ tươi tắn của tâm hồn và sự cuồng nhiệt gợi cảm của thể xác cô. Tuy nhiên tất cả tình yêu của người đàn bà Xứ Tuyết đã tiêu tan cùng cô, không để lại dấu vết trên cõi đời này được như là dấu vết của thứ vải chújimi. Bởi vì, dù thứ vải rất đỗi mỏng manh, sản phẩm của mỹ nghệ, như vải chijimi, cũng giữ bằng được chất vải, màu 93 ======= PAGE 95 ======= sắc sống động có tới nửa thế ki, còn lâu mới rách sờn, nếu được giữ gìn cẩn thận. Và, Shi. mamura suy diễn lơ đăng về tính bất ổn của sự thâm giao của con người cùng sự nổi trôi, không được bằng cuộc đời của một mảnh vải. Và anh vấp phải bất thình lình hình ảnh Komako trở thành người mẹ: Komako cho ra đời những đứa con của một người cha khác không phải là anh, anh đưa mắt lạc lõng nhìn ra bốn xung quanh. Chắc hẳn, vâng, chắc rằng chuyện đó quả là mệt mỏi. Suốt thời gian đi nghỉ, người ta có thể hỏi, không biết anh có nhớ đến vợ, con không? Nhưng anh đã lưu lại không phải không thể, hay không muốn rời bỏ Komako, mà đơn giản chỉ là anh đã có thói quen chờ cô đến thăm mình. Anh biết điều đó, cũng như biết dấn sâu vào, chấp nhận sự ân cần liên tiếp của cô, anh lại tự vấn lỗi của mình ở đâu, điều gì thiếu ở anh, để anh sống được như cô, mãnh liệt và toàn vẹn. Anh ngồi lì ra, đúng thế, suy ngằm về sự lãnh cảm của mình, không thể hiếu nổi, làm sao mà cô lại có thể quên mình để dâng hiến tự nguyện cho anh, mà không nhận được một thứ gì trao lại. Và bây giờ, tự đáy lòng anh đang nghe từ phía Komako, như một tiếng động lặng thầm, như tuyết rơi lặng câm trên thảm tuyết, như thứ tiếng vọng lịm đần sau sự bươn chải qua những bức tường trống rồng. Anh biết, giờ đây, anh không thể trượt theo sự tự nuông chiều và để người khác nuông chiều mãi như thế. Ngã người về phía chậu than người ta mang đến cho anh ngay từ buổi đầu có tuyết, Shimamura tự nhủ rằng, chắc hẳn anh sẽ không bao giờ quay lại khi đi khỏi nơi này. Chiếc ấm cổ đun nước mà chủ quán cho anh mượn, vật quý được làm từ Tokyo, bằng bạc, có chạm những hình chim và hoa rất mỹ thuật, đang reo như heo may về trong đám cây thông. Thật ra, anh đã nhận ra từ thứ tiếng hai luồng gió khác nhau, tiếng xào xạc của gió gần thổi qua lá và gió xa thổi đến. Và rất yếu ớt, từ trong ngọn gió xa kia, như thể đem theo từ một miền xa hơn nữa, tiếng ngân nga khó nhận của những hồi chuông. Anh nghe thấy chăng? Hay anh không nghe thấy? Shimamura áp tai lại gần chiếc ấm để nghe cho rõ. Và rất, rất xa, dưới kia, nơi tiếng chuông ngân, anh hình dung ra đôi chân đang nhẩy múa: đôi chân của Komako đang nhảy, hòa với nhịp của tiếng chuông xa đội lại. Shimamura lùi hẳn lại. Đi thôi. Đến lúc rồi! Chính là lúc anh nghĩ đến đi thăm xứ vải chijimi, với ý nghữ cuộc thăm viếng này giúp anh dễ đứt bỏ với trạm nước nóng. Shimamura lơ mơ không biết trong số những làng phía xuôi kia, anh sẽ chọn làng nào như một điểm dừng chân; và dường như những xưởng đệt hiện đại đã khiến anh dừng dưng, anh đã xuống một nhà ga, may sao ga này lại hẻo lánh và quạnh vắng. Rồi anh lại đi một lúc lâu để đến khu phố chính của một làng, mà hẳn là trước đây đã nhộn nhịp như một trạm thư. Ở hai bên đãy phố, những mái hiên có cột đỡ nhô hẳn ra phía trước, có hẳn một lối 94 ======= PAGE 96 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? rộng có thể đi lại khi tuyết nhiều, lấp cả mặt đường. Thứ đó giống như gian nhà trống mà những lái buôn vùng Edo xưa bày hàng để bán. Sâu trong những dây mái hiên nối liền của mỗi nhà, những lối đi có mái che, chạy suốt đầu nọ đến đầu kia đường phố. Để dọn đi lớp tuyết đầy trên mái những ngôi nhà nối đến một mạch với nhau ấy, người ta chỉ còn cách hất xuống lòng đường, hay chính xác hơn là tung tuyết lên một bức tường băng không ngừng chất cao thêm trong suốt cả mùa đông, mà những đường hào hoặc đường hầm đã được đào ngay ở đó để người ta có thể từ hai bên đường qua lại. Cái làng mà Komako ở, bên suối nước nóng, không giống kiểu như ở đây, dù nó vẫn có phong cách miền núi và cũng ở Xứ Tuyết: những ngôi nhà dựng cách xa nhau và có khu đất trống bao bọc. Shimamura, lần đầu tiên trông thấy những đãy hành lang có mái che chạy dọc phố như một tấm áo giáp chống tuyết khiến anh tò mò bước vào. Bóng tối phủ đầy dưới những hàng hiên hun hút, anh nhận ra những thân cột gỗ chống đỡ đã chớm mục dưới chân. Trong bóng tối, về những căn nhà tối sẫm, anh hình dung ra những đêm dài trong mùa đông dẳng đặc, nơi đó, đời này sang đời khác, tổ tiên của những con người hiện nay đã sống. Anh ngắm nhìn những cô gái trẻ, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, gò mình trong công việc, dệt không ngừng trong cái nhà tù của tuyết. Anh nhận ra rằng kiếp sống của họ nào có được rực rỡ và sáng sủa như thứ vải chijimi, thanh khiết và tươi tắn biết bao trong màu trắng do chính bàn tay năng động của họ tạo ra. Trong cuốn sách cổ mà Shimamura đã đọc, sau khi đề cập đến một bài thơ Trung Hoa, tác giả đã rút ra những sự khắc nghiệt của luật lệ kinh tế, rằng việc tạo ra thứ vải chijimi chẳng lời lãi được bao nhiêu khi mà một tấm vải mất một khối lượng ghê gớm công lao động, Nghề ấy chỉ có thể là một nghề thủ công gia đình và không bao giờ một nhà sản xuất có thể lấy thợ nữ từ bên ngoài. Vậy là những bàn tay vô danh xưa kia đã chết, sau khi làm việc cần mẫn, chỉ còn lại những tác phẩm của họ là thứ vải chijimi hiếm hoi này, thứ vải đã gây ra sự dễ chịu thích thú đối với những người am hiểu sành sỏi như Shimamura, bởi nó làm cho da đẻ mát dịu dưới ánh nắng hè. Cái ý nghĩ ấy, dẫu chỉ tâm thường nhưng anh cảm động như tìm ra được những điều sâu sắc. Một công việc mà trái tim đã đặt cả tình yêu nào đó, liệu nó có truyền đi được lời thông báo về lòng dũng cảm của một nỗ lực thưần nhất và lòng nhiệt thành của một cảm hứng thuần nhất. Theo dấu vết của con đường thư tín từ thời xa xưa như người ta đã biết, phố chính của làng chạy thẳng rồi xa đần bởi những ngôi nhà nằm cách xa nhau và tiếp nối dưới kia với ngôi làng của Komako và cái suối nước nóng. Ở đây cũng thế, các mái nhà lợp bằng ngói ván, được chẹn lên bằng những dãy đá mà anh đã rất quen thuộc. 95 ======= PAGE 97 ======= Để ý thấy những cột chống mái hiên đã hắt bóng lên nền đất, Shimamura biết đã xế chiều. Chẳng biết xem gì ở đây nữa, Shimamura đáp tàu xuống một ga khác và anh lại gặp một làng giống hệt cái làng anh gặp lúc đầu tiên. Anh lại dạo chơi ở đó và khi dừng chân, cảm thấy lạnh trong người, anh ăn một tô mì ở cửa hàng bình dị trên bờ con sông được hình thành từ dòng thác chảy xuống trạm nước nóng. Trên một chiếc cầu xa xa, arth nhìn thấy một hàng đầu trọc đi từng tốp hai, tốp ba: những nỉ cô, tất cả đều đi đép rơm, vài người mang trên lưng chiếc nón tu lờ tròn và nhọn cũng đan bằng rơm. Chắc là họ sau chuyến đi khất thực, họ đang quay về tăng viện, như một đàn qua sải cánh bay về tổ. ~ Giống đám rước quái - Shimamura nhận xét. Người đàn bà đứng trông cửa hàng trả lời anh: ~ Tăng viện của họ ở trên cao, chỗ sườn núi! Có lẽ đây là chuyến xuất hành cuối cùng, bởi khi tuyết đổ, họ không xuống được nữa. Trên ngọn núi bóng chiều đang sẫm dần, phía trên cầu, đợt tuyết đầu tiên đã phơi màu trắng toát. Ngay từ khi những chiếc lá rụng trước ngọn gió lạnh và gay gắt, ở Xứ Tuyết, ngày tuyền một màu xám, đầy mây và giá buốt. Người ta đã nhận ra tuyết trong không khí. Những, vòng cung núi bao quanh, trắng xóa lên từ trận tuyết đầu và người trong vùng gọi là “núi đội nón”. Dọc biển Bắc, biển mùa thu gầm thét và núi non cùng lúc tạo ra ở đây, giữa lòng xứ sở, vẳng lên tiếng thở dài ghê gớm, giống như tiếng ầm ì của sấm. Người ta gọi là “tiếng rì rầm của lòng đất“. Núi đội nón và tiếng rì rầm của lòng đất, theo như những điều Shimamura đọc trong sách cổ, thường báo hiệu và xuất hiện trước mùa tuyết lớn đôi chút. Từng thấy những bông tuyết đầu mùa vào buổi sáng anh thức dậy trong tiếng hát tuồng Noh, Shimamura tự hỏi, giờ đây, trong năm nay, đã có cái tiếng rì râm báo hiệu ở bờ biển hay trong vùng núi chưa? Phải chăng những cảm giác của anh đã bén nhạy lên suốt thời kỳ du ngoạn bên một người đàn bà duy nhất là Komako? (Trích “Xứ tuyết”, Kmuabata Yasunari, Lam Anh dịch, IPM 0à Nhà xuất bản Hồng Đúc, Hà Nội, 2018.) 96 ======= PAGE 98 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? SAU KHI ĐỌC I. Tìm hiểu tác giả, tác phẩm Kntuuabata Ynsunari (1899 - 1972) là một nhà văn nổi tiếng của Nhật Bản. Ông mồ côi sớm, có tuổi thơ bất hạnh, vì vậy mà ông có xu hướng tìm về với những điều đẹp đế của cuộc đời để chữa lành vết thương lòng của mình. Văn chương Kawaba- ta vừa đẹp, vừa đượm buôn; vừa phản ánh sâu sắc văn hoá Nhật Bản, cũng vừa nêu bật được những sự mơ mộng, da diết trong cõi lòng một “lãng khách u sầu”. Kawabata với tiểu thuyết “Xứ tuyết”, cùng với các tác phẩm nổi bật khác, đã được trao giải Nobel Văn học năm 1968, trở thành nhà văn Nhật Bản đầu tiên có được giải thưởng danh giá này. Năm 1972, Kawabata tự sát, không để lại thư tuyệt mệnh, không có ngụ ý gì trong các tác phẩm cuối đời, linh hồn ông vĩnh viễn nằm lại với “Xứ tuyết”, với “Cố đô” và với những đứa con tỉnh thần của mình. “Xứ tuyết” (1947) là một trong những tiểu thuyết xuất sắc của ông về con người và văn hoá Nhật Bản. Tác phẩm được vinh dự đưa vào lý do Kawabata được trao giải Nobel Văn học năm 1968. II. Trả lời các câu hỏi sau: Câu 1: Xác định ngôi kể và điểm nhìn trần thuật của câu chuyện trên. Câu 2: Thông qua yếu tố nào để có thể xác định đoạn trích trên được viết theo phong cách lãng mạn? Câu 3: Nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp thiên nhiên nơi xứ Tuyết. Câu 4: Kawabata có những dòng suy nghĩ như thế nào về Yoko mà Komako. Dòng suy nghĩ ấy giúp em cảm nhận gì về thái độ và tâm lý của nhân vật? Câu 5: Những giá trị văn hoá Nhật Bản nào được cài cắm vào trong đoạn trích? Thông qua đó, em có cảm nhận gì về phong cách viết văn của Kawabata? Cầu 6: Có ý kiến cho rằng: “Tình cảm của Shimamura mang đầy sự chân thành, da — ======= PAGE 99 ======= diết”. Cũng có ý kiến phản bác: “Đó là thứ tình cảm không thật lòng, không trong sáng và không mãnh liệt”. Thông qua đoạn trích trên, em hãy nêu ý kiến của em về hai nhận định. Câu 7 (Từ đọc đến viết): Thông qua đoạn trích trên, hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ nêu giá trị của thiên nhiên đối với con người. VĂN BẢN 2 MẮT SÓI Damiel Pennac TRƯỚC KHI ĐỌC 1. Giới thiệu chung Mắt sói là tiểu thuyết ngắn gồm bốn chương. Chương 1 kể về cuộc gặp gỡ kì lạ giữa cậu bé tên là Phi Châu và Sói Lam ở vườn bách thủ. Sói Lam chỉ còn một mắt. Con mắt kia của nó đã bị mất trong một cuộc giao tranh với con người. Con sói và cậu bé nhìn nhau bằng một mắt trong khu vườn thú vắng vẻ và yên lặng. Chương 2 là mạch truyện về nhân vật Sói Lam. Cậu bé Phi Châu nhìn sâu vào mắt Sói Lam và câu chuyện của gia đình nhà sói đã hiện lên trong con mắt ấy. Câu chuyện được kể ở ngôi thứ ba nhưng có lúc được chuyển sang ngôi thứ nhất qua lời của nhân vật Sói Lam. Sói Lam kể về những cuộc trốn chạy các toán đi săn của gia đình nhà sỏi nơi Bắc Cực xa xôi, lạnh giá. Chương 3 chuyển sang mạch truyện về nhân vật Phi Châu. Sói Lam nhìn sâu vào mắt Phi Châu và câu chuyện của cậu bé đã hiện ra với hành trình mưu sinh nhọc nhẳn trên khắp châu Phi. Sau vụ tai nạn xe buýt, cậu bé đã được mẹ Bia, cha Bia cứu sống, chăm sóc và sống cùng họ ở Châu Phi Xanh. Cây cối ở Châu Phi Xanh bị con người tàn phá ngày càng nhiều và hạn hán nghiêm trọng đã xảy ra. Vị thế, gia đình Phi Châu phải rời bỏ vùng đất này đến “Thế Giới Khác”. Chương 4 kể về việc gia đình Phi Châu chuyển đến thành phố và cha Bia được làm việc trong sở thú. Ở vườn thú, Phi Châu đã được gặp lại những người bạn thân thiết của mình, trong đó có lạc đà Hàng Xén, Báo,... Mẹ Bia rất lo lắng vì vài tháng nay một con mắt của Phi Châu đã nhắm lại. Con mắt của sới đã lành từ lâu, song nó nghĩ trong cái vườn bách thủ buồn thìu này, chỉ cần nhìn bằng một mắt là quá đủ. Nhưng bây giờ Sói đã có Phi Châu làm bạn. Sói nhìn ra thế giới xung quanh với những người bạn và các loài cây tràn ngập lối đi. Nó nghủ hình ảnh tươi đẹp này đáng nhìn bằng hai mắt. Vì thế, “nháy một cái”, mí mắt của sói mở ra và “nhậy một cái”, níƒ mắt của cậu bé mở ra.) (Trích “SGK Ngữ Văn 8 Kết nổi trị thức uới cuộc sống, NXB Giáo dục 2018) 2. Câu hỏi gợi mở Theo em, vì sao người ta.lại gọi đôi mắt là “cửa số tâm hồn”? Thông qua đôi mắt của một ai %. tạ Che 98 iêu gì ở họ?-À ======= PAGE 100 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? ĐỌC VĂN BẢN Chương 2: Mắt sói q) Một con mắt màu vàng, tròn xoe, chính giữa có một con ngươi màu đen. Một con mắt không chớp bao giờ. Hệt như cậu bé đang nhìn một ngọn đèn trong đêm; cậu chẳng thấy gì ngoài con mắt này: cây cối, vườn thú, khu chuồng, mọi thứ đã biến mất. Chỉ còn lại một điều duy nhất: mắt sói. Con mắt càng lúc như càng to hơn, tròn hơn, như một tuần trăng úa trên bầu trời trống trải, và chính giữa, một con người như càng đen hơn, và trong quầng vàng nâu quanh con ngươi, người ta thấy xuất hiện những điểm màu khác nhau, chỗ này là màu lam (xanh như nước đóng băng dưới bầu trời), chỗ kia là một tia ánh vàng, lấp lánh như trang kim). Nhưng điểm quan trọng nhất chính là con ngươi. Con ngươi màu đen! —Mi đã muốn nhìn ta thì nhìn đi! Dường như con ngươi muốn nói. Nó loé lên một tia sáng khủng khiếp. Hệt một ngọn lửa. “Đúng rồi, cậu bé nghĩ: ngọn hắc hoả?!” Và cậu trả lời: ~ Được rồi, Hắc Hoả, ta nhìn đây. Ta không sợ đầu. Con người như to hơn, choán hết cả con mắt, cháy lên như một đảm lửa thực sự, cậu bé không ngoảnh mặt đi. Và khi mọi thứ trở nên tối sâm, đen thẫm, cậu phát hiện ra một điều mà trước cậu, chưa hề có ai nhìn thấy trong mắt sói: con ngươi có sự sống. Con ngươi màu đen chính là một con sói cái đang nằm cuộn tròn giữa bầy con nhỏ của mình, nó vừa gầm gừ vừa nhìn cậu bé. [...] Và chẳng thèm để ý tới cậu bé nữa, sói cái lướt nhìn một lượt bảy đứa con nhỏ của mình đang nằm vây quanh. Chúng làm thành một quầng màu hung đỏ. “Sắc cầu vồng, cậu bé nghĩ, quanh con ngươi có sắc cầu vồng.” Phải rồi, màu lông của năm sói con hết quầng hung đỏ của cầu vồng. Bộ lông của con thứ sáu màu xanh lam, xanh như màu nước đóng băng dưới nền trời trong veo. Sói Laml Con thứ bảy (một con sói cái màu vàng) trông như tia vàng. Mỗi khi nhìn vào là phải nheo mắt. Mấy cậu sói anh gọi nó là Ánh Vàng. [...] Ø .- HH Và hằï vì buồn nêƒ/ Ảnh Vàng muốn được thấy những điều mới mẻ. Cô muốn nhìn thấy con người. Nhìn thật gần cơ. Và chuyện xảy ra vào một đêm. Vẫn toan đi săn mọi khi lùng sục theo gia đình sói. Họ dựng trại ở một vùng trũng đầy cỏ, từ hang sói tới đó mất 1. Trang im: 'phúi lên bê › mặt đồ vật nào đó (chỉ, Lưếy vải...) một lớp kim loại mỏng. `» 99 ======= PAGE 101 ======= chừng ba giờ đồng hồ. Ảnh Vàng ngửi thấy mùi khói bốc lên từ đám lửa họ đốt. Cô còn nghe thấy cả tiếng củi khô kêu lách tách. “Ta phải tới đó xem sao”, cô tự nhủ. “Ta sẽ trở về trước khi trời sáng.” “Cuối cùng ta cũng sẻ phải được biết họ giống ai chứ.” “Ta sẽ có chuyện kể cho mọi người, và cả nhà sẽ đỡ buồn hơn.” “Và hơn hết là vì họ đang sẵn lùng ta...” Cô nghĩ như vậy là đủ lí đo để trốn khỏi hang. Và cô đi tới đó. Khi Sói Lam tỉnh giấc vào đêm hôm đó (như có linh cảm), cô sói em đã đi cách đó một giờ đồng hồ. Nó đoán ngay chuyện gì đã xảy ra. Cô ấy đã lừa Sói Xám Em Họ gác đêm hôm đó (điều này cô ấy cũng làm được), và cô đã tới chô con người. “Ta sẽ đuổi kịp em!” Sói anh đã không làm được điều này. Tới chỗ dựng trại của toán đi săn, Sói Lam thấy có nhiều người đứng nhảy múa trong ánh lửa chập chờn, quanh một tấm lưới bị buộc chặt bằng một sợi dây thừng rất to, cột vào một giá đỡ. Ánh Vàng bị nhốt trong lưới đang cắn vào chỗ trống. Bộ lông của nó lấp lánh những ánh chớp vàng trong màn đêm. Bầy chó điên loạn nhảy chồm chồm dưới tấm lưới. Hàm răng lộp cộp. Còn đám người thì vừa nhảy vừa hú. Họ mặc áo lông cáo. “Mẹ Hắc Hỏa nói đúng”, Sói Lam nghĩ. Và nó nảy ra một ý: “Nếu ta cắn đứt sợi dây, lưới sẽ rơi xuống giữa bầy chó và sẽ mở ra. Con bé quá nhanh so với bọn này, và chúng ta sẽ thoát!”. Phải nhảy qua ngọn lửa. Một việc chẳng hay ho gì với một con sói. Nhưng chỉ có cách làm vậy và phải thật nhanh. Không còn thời gian mà sợ hãi. “Tấn công bất ngờ, đó là cơ may duy nhất của tai”. Thế là Sói Lam tung người bay trên làn không khí bỏng rát bên trên đảm lửa, trên những, con người (mặt họ đỏ lừ vì khói lửa), bay trên cả bao lưới! Nó dùng răng cắn đút phăng sợi dây và hét: ~ Chạy đi, Ánh Vàng! Đám người và chó còn đang nhìn hết lên trời. Ánh Vàng chần chừ: — Anh Sói Lam, tha lỗi cho em, tha... Cả đám náo loạn. Sói Lam hất tung hai con chó vào lửa: ~ Chạy đi, Ánh Vàng, chạy đi! — Không! Em không muốn bỏ anh lại một mình 100 ======= PAGE 102 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Nhưng bầy có quả đông. ~ Chạy đi, anh giao cả nhà cho em đấy! Sói Lam thấy Ánh Vàng tung người nhả một củ tuyệt hảo. Theo sau đó là những tiếng súng nổ. Tuyết bắn ra những chùm tia quanh người cô. Thế là xong! Cô đã mất hút trong màn đêm. Sói Lam chưa kịp mừng vì em chạy thoát. Bất ngờ một gã to như gấu đứng sựng trước mặt nó, hai tay vung một thân cây đang bốc cháy. Choáng váng. Đầu Sói Lam như nổ tung. Và màn đêm. Nó ngã xuống, ngã xuống, cứ xoay tròn và rơi mãi trong màn đêm đầy tia lửa. (Khi tỉnh lại, Sói Lam chỉ mở được một mất. Nó đã bị đẩu tới năm hay sâu oườn thú trong suốt mười năm qua. Câu chuyện trở uề uới hình ảnh cậu bé yên lặng, chăm chú đứng trước chuồng sói. Sói rất nui được gặp lại cậu bé. Cậu bé chính là kỉ niệm cuối cùng của sói. Con ngươi trong mắt sói bùng lên như một ngọn lửa bao quanh cậu bẻ đầu thắc mắc: “Còn cậu? Cậu ấy? Cậu là ai? Hả? Cậu là ai? Mà tên cậu là gì nhỉ?”) Chương 3: Mắt người @) Đây không phải lần đầu tiên có người hỏi tên cậu bé. Hồi đầu có nhiều đứa trẻ khác hỏi... -Ê này, cậu mới đến đây hả? — Cậu từ đâu tới đấy? ~ Bố cậu làm gì? ~ Cậu mấy tuổi? ~ Cậu học lớp mấy? ~ Có biết chơi trò chơi cao không? Toàn những câu hỏi trẻ con. Nhưng thường mọi người hỏi giống câu Sói Lam vừa nảy ra trong đầu: — Cậu tên là gì? Và chưa hề có ai hiểu được câu trả lời của cậu bé. ~ Tôi tên là Phi Châu. ~ Phi Châu ư? Đấy là tên nước chứ có phải tên người đâu! Và họ cười, ~ Nhưng tên tôi là Phi Châu thật mà. [...] ======= PAGE 103 ======= Song cậu bé biết rõ là một cái tên sẽ chẳng nói lên điều gì nếu không có chuyện của nó. Cũng như một con sói trong vườn thú: Nó sẽ chỉ là một con thú bình thường như bao con khác nếu người ta không biết chuyện về cuộc đời nó. “Được rồi, Sói Lam ơi, ta sẽ kể cho mi nghe chuyện của ta.” Và đến lượt con mắt của cậu bé chuyển động. Như một ảnh sáng vụt tắt. Hoặc cảm giác như một đường hầm bị sập dưới lòng đất. Phải rồi, một đường hầm giống một cái hang cáo mà Sói Lam từng chui vào. Càng vào sâu thì càng mờ mịt. Chẳng mấy chốc thì tối om, không còn giọt nắng nào. Ngay tới đầu ngón chân mình Sói Lam cũng không nhìn thấy. Không biết nó chìm trong con mắt của cậu bé như thế bao lâu rồi rủ? Thật khó nói. Nhiều phút trôi qua tưởng chừng như hàng năm trời. Mãi tới lúc, một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên từ sâu trong bóng đêm: “Đây rồi, Sói Lam ơi, đây là nơi có ki niệm đầu tiên của ta đó!” (Vào một đêm hãi lùng áo chiên tranh ở châu Phí, cậu bé Phi Châu mồ côi được một người phụ nữ tốt bụng đưa tiền cho lão Toa lái buôn uà nhờ lão đưa đi thật xa. Cậu bé uà lạc đà một bướu tên là Hàng Xén đã trở thành đôi bạn thân thiết. Rất nhiều lần, lão Toa lái buôn đã cố tìm cách bỏ rơi cậu bé. Nhưng lạc đà kiên quyêt không đi nếu không có cậu bé. Một buổi sáng, lão Toa đã bán lạc đà Hàng Xến trong thành phố oà bán cậu bé Phi Châu cho Vua Dê.) 4) Sau khi lão Toa đi rồi, Phi Châu phải mất hàng giờ để tìm Hàng Xén. Nhưng chẳng thấy. “Nó không thể rời thành phố được, nó không thể đi đâu một bước mà không có tôi! Nó đã hứa với tôi thế rồi mài” Cậu hỏi thăm những người qua đường. Và mọi người trả lời cậu rằng: - Cậu bé ơi, ở đây ngày nào người ta chẳng bán đến hàng nghìn con lạc đà! Cậu hỏi cả những đứa trẻ trạc tuổi cậu: ~ Các bạn có nhìn thấy một con lạc đà một bướu có đôi mắt mơ màng không? Bọn trẻ cười vang: ~ Lạc đà một bướu nào chẳng mơ màng! Cậu hỏi cả những con lạc đà: — Một chú lạc đà một bướu to như đồi cát ấy! Hội lạc đà nhìn chủ từ trên cao: — Cậu bé ơi, chúng tôi toàn nam thanh nữ tú thôi, không có lạc đà một bướu đâu... Và tất nhiên cậu hỏi cả những người mua lạc đà: ~ Một chủ lạc đà một bướu rất đẹp màu cát mà bác lái buôn Toa đã bán di.... 102 ======= PAGE 104 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? ~ Bán bao nhiêu? - Mấy người mua hỏi, vì họ chỉ quan tâm vậy thôi. Cậu cứ đi hỏi suốt cho tới lúc Vua Dê nổi cáu: — Này, Phi Châu, không phải mày ở đây để tìm con lạc đà nhé, mày ở đây để chăn đàn cừu và dê của tao nghe chưa! [..] Phi Châu đã ở lại chăn cừu cho Vua Dê được tròn hai năm. Dân trong vùng Châu Phi Xám) vô cùng ngạc nhiên, không tin lắm vào chuyện này. Thường lão già không giữ người chắn cừu nào quả hai tuần. Cậu có mẹo gì vậy? Phí Châu không hề có bí mật gì. Cậu là một người chăn cừu tốt, chỉ có vậy thôi. Cậu đã hiểu ra một điều rất đơn giản: Đàn cừu và dê không có kẻ thù. Nếu thi thoảng có sư tử hay báo ăn thịt một con đê cái thì chỉ vì nó đói. Phi Châu đã giải thích điều này với Vua Dê. — Vua Dê này, nếu ông muốn lũ sư tử không tấn công đàn cửu và đê thì ông phải cho chúng ăn. ~ Nuôi bọn sư tử ư? Vua Dê lấy tay vê bộ ria: — Được, Phi Châu ạ, hay đấy. Và thế là cứ chỗ nào Phi Châu đưa đê tới gặm cỏ là lão cũng để sẵn những miếng thịt to đùng đem từ thành phố về. — Phần của mày đây nhé Sư Tủ, đừng có đụng vào bọn cừu cái của tạo đấy. Lão Sư Tử Già của Châu Phi Xám lượn qua những khu để thịt chẳng cần vội vàng. ¬ Mày đúng là một thằng chăn cừu buồn cười thật. Và lão vào bàn ăn. Với tên Báo thì Phi Châu nói chuyện lâu hơn. Vào buổi tối Báo bò sát gần đàn dê và cừu. Phi Châu đã đề phòng rất chắc và nói: ~ Báo nảy, đừng có bò như rắn thế, tôi nghe thấy tiếng anh rồi đấy. Báo vô cùng ngạc nhiên thỏ đầu ra khỏi bụi cỏ khô. — Làm sao mà cậu nghe thấy hả chăn cừu? Chưa hề có ai nghe được tiếng ta đậu. ~ Tôi từ Châu Phi Vàng tới. Ở đó không gian lặng như tờ, không hề có tiếng động, làm cho tai rất thính. Tôi có thể nói cho anh là có hai con rận đang cãi nhau trên vai anh đấy. Và Báo ngoạm nhai luôn hai con rận. - Thấy chưa, Phi Châu nói, tôi cần nói chuyện với anh. 3. Trong tác phẩm, các vùng đất châu Phí được gọi trên bằng màu sắc. Châu Phi Xám là nơi có những cánh đồng mênh mông rặt cỏ khô. Châu Phi Vàng là vùng đất của biển cát sa mạc. Châu Phi Xanh là nơi có nhiều cây cao và rậm rạp những đám mây. 103 ======= PAGE 105 ======= Báo ta rất háo hức nên ngồi xuống ngay và lắng nghe. ~ Anh là một tay đi sẵn tuyệt vời, Báo ạ. Anh chạy nhanh hơn bất kế loài thú nào, lại còn nhìn được xa hơn. Đây cũng là ưu điểm của người chăn cừu. Im lặng. Có tiếng một con voi rít từ rất xa. Và tiếp sau đó là tiếng súng nổ. — Toán đi săn lạ, Phi Châu thì thầm. ~ Đúng rồi, chúng quay trở lại đấy, Báo nói, hôm qua ta vừa thấy chúng. Một phút buồn bã. — Báo ơi, anh chăn cừu với tôi nhé? — Ta sẽ làm được g1? Phí Châu nhìn Báo một hồi lâu. Hai giọt nước mắt khóc từ lúc nào, giờ đã khô lại làm thành hai vệt đen đài tới tận mép. ~ Báo này, anh cần có một người bạn, và tôi cũng vậy. Chuyện xảy ra với Báo như vậy. Phi Châu và Báo đã trở thành đôi bạn thân thiết, không thể tách rời. (Trích “MÁT sói”, Đa-ni-en Pen-nắc, Ngân Hà dịch, NXB Hội Nhà oăn, Hà Nội, 2014) SAU KHI ĐỌC L Tìm hiểu tác giả, tác phẩm Daniel Pennac (Đa-ni-en Pen-nắc) sinh năm 1944, là một nhà văn người Pháp. Các tác phẩm của ông có sức hấp dẫn với người đọc bởi những chất liệu độc đáo được kết tĩnh từ trải nghiệm sống dày đặn của ông. Pennac thành công với thể loại tiểu luận, tiểu thuyết, truyện tranh,... và đặc biệt, các sáng tác về thiếu nhỉ của ông đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Mắt sói là được xem là cuốn tiểu thuyết về thiếu nhỉ kinh điển của nước Pháp, thể hiện nhiều góc nhìn độc đáo của nhà văn về mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên. 104 ======= PAGE 106 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? 1I. Câu hỏi nâng cao cảm thụ và gợi mở tư duy Câu 1: Căn cứ vào đâu để chứng tỏ rằng văn bản “Mắt sói” có cốt truyện đa tuyến? Câu 2: Thông qua tình huống Sói Lam liều mình cứu Ánh Vàng, em có nhận xét gì về tỉnh cách của Sói Lam trong câu chuyện trên? Câu 3: Trong mnắt của Phi Châu, kí ức nào đã được hiện lên? Câu 4: Em hãy tìm ra các chú tiết miêu tả mắt sói và mắt người. Từ đó, nêu cảm nhận của em về hai hình ảnh trên. Cách miêu tả Câu chuyện hiện lên Cảm nhận của em Câu 5: Thái độ, tình cảm của cậu bé Phi Châu với lạc đà Hàng Xén, với Sư Tử và Báo là gì? Thông qua đó, em hãy nêu cảm nhận về cậu bé Phi Châu. Câu 6: Em hãy nhận xét những nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của tác phẩm. Câu 7: Em hãy viết đoạn văn khoảng 10 dòng trình bày và lý giải thông điệp mà em ấn tượng trong trong văn bản trên. C. TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH I. Kiến thức chung: Ngôn ngữ trang trọng và ngôn ngữ thân mật 1. Ngôn ngữ trang trọng Ngôn ngữ trang trọng là ngôn ngữ thường được dùng trong các ngữ cảnh mang tính học thuật, lịch sự như giao tiếp với người lạ, người lớn tuổi hơn mình,... hoặc trong các buôi báo cáo, thuyết trình, tọa đàm,... Ngôn ngữ trang trọng được sử dụng trong nhiều văn 105 ======= PAGE 107 ======= bản viết, đặc biệt là các văn bản chính luận, hành chính-công vụ, các văn bản thư từ trao đổi công việc với đối tác, đơn xin việc. Ngôn ngữ trang trọng đòi hỏi sự gọt giũa kĩ lưỡng, bảo đảm chuẩn mực, rất ít hoặc không có từ lóng, từ thông tục. Từ vựng phải yêu cầu tính đơn nghĩa, chính thống, hạn chế các từ mang sắc thái nghĩa biểu thái cao; ưu tiên những từ sắc thái trung lập hoặc sắc thái trang trọng. Ví du 1: “Xin lỗi oì đã làm phiền, bạn có thể hướng dẫn tôi cách đến trạm xăng gần nhất được không?” Ví dụ 2: “Nước Việt Nam có quyền hưởng Hự do 0à độc lập, 0à sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tính thần uà lực lượng, tính mạng pà của cải để giữ uững quyền tự do, độc lập ấJ.” 2. Ngôn ngữ thông tục Ngôn ngữ thông tục (hay còn gọi là ngôn ngữ thân mật) thường được dùng trong bối cảnh giao tiếp thường ngày, mang tính gần gũi, thân mật giữa bạn bè, người thân quen; có thể qua lời nói trực tiếp hoặc qua thư từ, tin nhắn,... Một số văn bản văn học thường sử dụng ngôn ngữ thông tục khi xây dựng những đoạn đối thoại của nhân vật. Vidu. — Này bác Tràng! Bác Tràng!.... Sau một khuôn cửa tối, một cái đầu trọc thò ra gọi giật giọng. Tràng lật đật qua lại. ~ Về muộn mấu? Hãng uào chơi cái đã nào. Tràng đứng lại thoái thác: ~ Thôi ông để cho đến hôm khác. Cái đầu trọc nháy nháy một con mắt, hất hất uề phía người đàn bà hóm hình: — Cánh nào đấu? — À hà... người quen. Thôi để hôm khác ông nhá. (Kim Lân) 106 ======= PAGE 108 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Ngôn ngữ thông tục bao gồm các từ ngữ dân dã, gần gũi, phù hợp với bối cảnh giao tiếp thường ngày. Ngữ pháp của ngôn ngữ thông tục thường khá đa dạng, phụ thuộc nhiều vào bản thân người nói. Ngôn ngữ thông tục thường có nhiều câu đặc biệt, câu rút gọn, phương tiện liên kết thường dùng là phép lặp, phép tuyến tính, phép thế và phép tỉnh lược. 3. Sử dụng ngôn ngữ trang trọng và ngôn ngữ thân mật Trong giao tiếp, cần căn cứ vào ngữ cảnh, mục đích nói để sử dụng phù hợp ngôn ngữ trang trọng hoặc thân mật. Ngôn ngữ thân mật thường diễn đạt ý nghĩa một cách trực tiếp, thắng thắn nên nếu sử dụng không đúng sẽ tạo cảm giác suồng sã, thiếu lịch sự. Ngược lại, ngôn ngữ trang trọng có thể tạo ra khoảng cách không cần thiết giữa các đối tượng giao tiếp, làm cho cuộc đối thoại trở nên gượng gạo, mất tự nhiên. Khi giao tiếp, ta cũng không nên cứng nhắc sẽ sử dụng hoàn toàn một lối ngôn ngữ nào; mà có thể luân phiên chuyển đổi qua lại giữa ngôn ngữ trang trọng và thân mật. Một số ngữ cảnh đồi hỏi ta dùng ngôn ngữ trung lập (hoặc gọi là bán trang trọng) để nâng cao hiệu quả giao tiếp (Ví dụ: Sách giáo khoa, các bài văn nghị luận, các bài thuyết minh,... thường dùng ngôn ngữ bán trang trọng). H. Luyện tập Bài 1: Đọc các câu sau đây và chỉ ra câu nào sử dụng ngôn ngữ thân mật, câu nào sử dụng ngôn ngữ trang trọng. Vì sao? a. Tôi thường đón gió chướng về với một tâm trạng lộn xôn, ngổn ngang. Mừng đó rồi bực đó. Sao tôi lại chờ đợi nó, chẳng phải năm nào cũng vậy, lúc cầm cây chổi ra quét sân, đứng trong gió đầm đìa tôi cũng buồn, buôn muốn chết. Trời ơi, gió này là sắp hết năm đây, sắp già thêm một tuổi đây, mình đã kịp sống gì đâu, tay mình vẫn trắng như vầy... Mỗi lần gió về lại cảm giác mình mất một cái gì đó không rõ ràng, không giải thích được, như ai đó đuổi theo đẳng sau, tôi gấp rãi ăn, gấp rãi nói, gấp rãi cười, gấp rãi khi ngày bắt đầu rụng xuống... (Nguyễn Ngọc Tư) b. Thanh đi bên bà, người thẳng, mạnh, cạnh bà cụ gầy còng. Tuy vậy chàng cảm thấy chính bà che chở cho chàng, cũng như những ngày chàng còn nhỏ. 107 ======= PAGE 109 ======= — Nhà không có ai ư bà? ~ Vẫn có thằng Nhân, hôm nay nó đi đong thóc bên kia xóm. D- chốc nó về. Con đã ăn cơm chưa? - Dạ chưa. Con ở tàu về đây ngay. Nhưng con không thấy đói. Bà nhìn cháu, giục: ~ Con rửa mặt đi, rồi đi nghỉ không mệt. Trời nắng thế này mà con không đi xe ư? Thanh cười: ~ Có một tý đường đất, cần gì phải xe. Con đi bộ hàng ngày cũng được. c, Theo Wilhelm Wundt, đối tượng của tâm lý học không chỉ là ý thức chủ quan và con đường nghiên cứu ý thức là các phương pháp nội quan và tự quan sát. Mà đối tượng, của tâm lý học còn bao hàm cả những ý thức khách quan (hữu thức) mà con người hoàn toàn có thể quan sát, đo đạc được bằng các phương pháp thực nghiệm. đ. Tôi xin được long trọng chào mừng sự có mặt của quý đại biểu, quý thầy cô và toàn thể các bạn học sinh. Bài 2 (thực hành): Hãy viết những lá thư theo yêu cầu sau, lưu ý sử dụng ngôn ngữ trang trọng hoặc ngôn ngữ thân mật. a. Hãy viết một lá thư để xin vào vị trí thực tập sinh ngành marketing ở một công ty thương mại quận Hoàn Kiếm. b. Hãy viết một lá thư để chia sẻ với người bạn ở miền Nam của mình về chuyến đi vịnh Hạ Long vừa qua. c. Bạn đã đặt ở trên sàn thương mại điện tử một quyển sách. Nhưng khi nhận về, sách lại bị móp và hỏng bìa. Hãy viết một lá thư trình bày tình trạng sách với cửa hàng phân phối và yêu cầu được đổi trả. 108 ======= PAGE 110 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? D. VIẾT VIẾT BÀI VĂN SO SÁNH, ĐÁNH GIÁ HAI TÁC PHẨM VĂN XUÔI Tiếp nối với bài học số 2, ở bài 3, chúng ta sẽ tìm hiểu về cách phân tích, so sánh, đánh giá hai tác phẩm văn xuôi (đặc biệt là truyện ngắn, tiểu thuyết). 1. Tri thức về kiểu bài Bài oăn so sánh, đánh giá hai tác phẩm là kiểu bài nghị luận dùng lí lẽ và bằng chứng để làm rõ những điểm tương đồng/khác biệt về giá trị nội dung và nghệ thuật giữa hai tác phẩm văn xuôi. Ví du: Anhíchị hãy uiết bài năn để so sánh, đánh giá số phận của người phụ nữ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân uà “Chiết thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Yêu cầu về kiểu bài: ® - Nêu được mục đích, cơ sở của việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm văn xuôi. ® Làm rõ được điểm tương đồng, khác biệt giữa hai tác phẩm theo yêu cầu của đề bài. ©_ Sử dụng lý lẽ, dẫn chứng xác đáng, thuyết phục; sắp xếp các ý một cách logic, hợp lý, rõ ràng, đảm bảo tính mạch lạc. Yêu cầu về bố cục (Yêu cầu về bố cục được biên soạn theo quan điểm của các tác giả sách “Chân trời sáng tạo”) Giới thiệu sơ lược về hai tác phẩm văn xuôi (tên tác giả; xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác của hai tác phẩm) và nêu nội dung cần so sánh (theo yêu cầu đề bài hoặc nêu mục đích của việc so sánh: so sánh để làm rõ điều gì?). Có thể triển khai theo hướng sau: s Chỉ ra những điểm chung giữa hai tác phẩm: hoàn cảnh sáng tác, nội dung chủ đạo, các phương diện nghệ thuật nổi bật. Thân bài « _ Chỉ ra những điểm riêng của hai tác phẩm về nội dung đang cần đánh giá, so sánh. s _ Đánh giá chung giá trị của hai tác phẩm (những nét nổi bật về nội dung và nghệ thuật): Thao tác này không bắt buộc nhưng nên có. 109 ======= PAGE 111 ======= Khẳng định lại giá trị chung của hai tác phẩm trong việc thể hiện vấn Kết bài đề nghị luận cũng như sự tài năng của hai tác giả. 2. Đọc ngữ liệu tham khảo và trả lời câu hỏi “ĐỜI THỪA” CỦA NAM CAO VÀ “BỨC TRANH” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU - ĐIỂM TỐI CỦA NHỮNG CON NGƯỜI TRI THỨC Người uiết: Huy Yên (TG Chuyên môn HVCSM) “Đời thừa” của Nam Cao và “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu đều là hai tác phẩm tiêu biểu viết về sự mâu thuẫn, đấu tranh trong thâm tâm của những con người trí thức, có khả năng sáng tạo nghệ thuật nhưng cũng chính vì nghệ thuật mà rơi vào bị kịch. Thông qua hai tác phẩm, người đọc đễ dàng cảm nhận được rõ nét điểm tối của những con người được xã hội tôn vinh là có học thức, có tài năng vượt trội. Tuy được viết ở hai thời điểm khác nhau, song cả hai tác phẩm đều đề cập tới một vấn đề nhức nhối trong xã hội: con người sẽ bị tha hoá khi rơi vào bi kịch. Cả nhân vật Hộ và nhân vật người hoạ sĩ đều là những người nghệ sĩ có khát vọng nghệ thuật cao đẹp, đó là sáng tạo ra những tác phẩm có ích cho đời, để lại những rung cảm mạnh mẽ trong lòng người thưởng thức nó. Nhưng biến cố đã ập đến khiến họ phải tự huỷ hoại đạo đức nghề nghiệp cao cả của mình. Hộ vì đèo bòng thêm Từ và con của cô nên phải viết ra những thứ văn đở tệ, đọc xong rồi sẽ quên ngay; còn người hoạ sĩ vì cái lợi trước mắt mà đã quên đi lời hứa của mình, đẩy một gia đình khó khăn vào tình cảnh bi đát, khiến người mẹ già khóc đến mù mắt vì nghĩ con mình đã tử trận trên sa trường. Nhìn chung, cả hai tác phẩm đều đề cập đến những mặt tối của con người - dù cho đó là những con người có học thức. Cả hai nhà văn đều chứng mình cho ta thấy rằng: “Bên trong mỗi con người luôn tồn tại những nghịch lý, những sự hoà trộn giữa rồng phượng uà rắn rêt.” Không chỉ có vậy, cả Nguyễn Minh Châu và Nam Cao đều thể hiện vai trò xuất sắc của một nhà nhân đạo khi đã cho nhân vật của mình một con đường để hối lỗi, mặc dù hậu quả họ gây ra đã không còn có thể sửa chữa được nữa. Về mặt nghệ thuật, cả hai truyện ngắn đều tạo ấn tượng đặc biệt bởi thủ pháp xây dựng tâm lý nhân vật độc đáo, lô-gích; ngoài ra, còn có những tình huống truyện độc đáo, khiến cho nhân vật thay đối nhận thức, hành động. 110 ======= PAGE 112 ======= 1ụP UI - ivg0áI Kia rực rỡ bao nhiêu? Tuy gặp gỡ ở nhiều điểm nhưng cả hai nhà văn đều có riêng cho mình một hướng đi độc lập, đúng như một nhà thơ Lê Đạt từng nhận định: “Mỗi công dân đều có một dạng uân tau. Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng oân chữ”. Trước hết, cả hai nhà văn đều khiến nhân vật của mình rơi vào bi kịch khi gặp phải những mâu thuẫn. Tuy vậy, mâu thuẫn trong “Đời thừa” lại là mâu thuẫn mang tính chất ngoại cảnh, còn mâu thuẫn trong “Bức tranh” dường như lại xuất phát từ bên trong nội tại của nhân vật. Trong truyện ngắn “Đời thừa“, Hộ rơi vào bì kịch theo một lô-gích thường thấy của văn học hiện thực trước cách mạng: Áp lực cơm áo gạo tiền; gánh nặng cuộc sống; buông bỏ ước mơ; trở thành người mà mình chán ghét. Vì vậy, nếu như cuộc sống khấm khá hơn, bớt chật vật hơn; nhân vật Hộ sẽ không rơi vào bi kịch, sẽ trở thành một nhà văn tài ba, một người chồng, người cha mẫu mực. Ngược lại, truyện ngắn “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu lại khai thác mâu thuẫn trong nội tại, tức là không có một ngoại cảnh nào điều khiển số phận người hoa sĩ, tất cả là do sự ích ki, vô trách nhiệm, ham danh vọng của ông đã khiến ông bội ước. Cuối cùng, đó là tác phẩm duy nhất giúp ông nổi tiếng, cũng là bằng chứng duy nhất tố cáo bộ mặt giả dối của ông khi ông đối diện với chính mình và bức tranh mình đã vẽ trong tiệm cắt tóc. Có thể thấy, văn học thời kì hậu chiến quan tâm nhiều hơn đến những sự dao động trong tâm thức của con người, để chứng minh rằng không một cá thể nào tồn tại là hoàn toàn đơn giản, hiền lành, vô tội. Còn văn học hiện thực trước cách mạng lại có xu hướng phê phán những yếu tố bên ngoài như xã hội, chế độ, cái đói, cái nghèo,... Chính vì sự khác nhau trong việc khai thác mâu thuẫn (bên trong, bên ngoài) đã ảnh hưởng đến cách hai nhà văn lựa chọn điểm nhìn và phong cách kể chuyện của mình. Để khắc hoạ mâu thuẫn bên ngoài, không một điểm nhàn nào phù hợp hơn điểm nhìn ngôi thứ ba, và nhà văn Nam Cao cũng đã sử dụng rất tốt điểm nhìn hạn trị để làm cho tâm lý của nhân vật Hộ vừa được hiện lên rõ nét, song cũng có những cảm nhận, đánh giá khách quan riêng của người kể chuyện. Còn ở truyện ngắn “Bức tranh”, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã lựa chọn kể theo góc nhìn thứ nhất “tôi”, nhờ đó mà sự đấu tranh nội tâm của nhân vật chính càng được thể hiện rõ nét hơn cả. Về tình huống truyện, có thể thấy tình huống mà Nam Cao xây dựng trong câu chuyện đi theo mô-típ phổ biến của văn học trước cách mạng: có hoài bão, nhưng gặp rào cản, rơi vào bi kịch, cảm thấy ân hận. Mặt tối của người tri thức thể hiện qua cách anh đối diện bất thành với khó khăn trước mắt, anh khiến Từ và các con khổ, mà chính anh cũng khổ. Vì vậy, khi chứng kiến Từ nằm trên chiếc đõng với vẻ khắc khổ, tội nghiệp; Hộ đã cảm thấy ân 11 ======= PAGE 113 ======= hận, xúc động mà khóc như một đứa trẻ. Ngược lại, truyện ngắn “Bức tranh” lại khắc hoạ một tình huống hết sức độc đáo: người hoạ sĩ vào đúng tiệm cắt tóc của người chiến sĩ năm xưa, nhìn thấy bức tranh mình vẽ anh ta đang treo, nhìn thấy chính mình trong gương, đau khổ. Không một ai chà đạp, không một tác nhân nào khiến ông đau đớn; người chiến sĩ năm xưa không nói gì, nhưng cái điềm tĩnh ấy càng khiến người hoạ sĩ trở nên xấu hổ, đau đớn; vì nội tâm của ông vốn dĩ chẳng còn bình an nữa. Người chiến sĩ ấy có thể tha thứ cho ông, nhưng ông sẽ không bao giờ tha thứ cho chính mình, khi biết rằng mình đã gây ra những hậu quả gì cho cuộc đời của người khác. Ở đây, mặt tối của người tri thức lại là đánh mất chính mình, đánh mất những thiên lương cao đẹp và làm cho những đứa com tỉnh thần của mình trở nên vô cùng xấu xa, phi đạo đức. Nhân vật Hộ trong “Đời thừa” mang dáng dấp của một người trị thức tiểu tư sản, nhân vật người hoạ sĩ trong “Bức tranh” lại là con người của thời đại mới. Dẫu vậy, cả hai người họ cho chúng ta thấy được một chân lý: không ai là hoàn hảo, kể cả những người làm nghệ thuật. Đó là một điều không thể nào chối cãi, và cũng là một trăn trở, day đứt mà bất kể người nghệ sĩ chân chính nào, dù ở thời đại trước hay thời đại sau, đều khao khát được lý giải, được làm rõ để gửi gắm đến bạn đọc những bài học “trông nhìn uà thường thức” (Thạch Lam). Tóm lại, truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao và “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu đều cho chúng ta cảm nhận được những góc khuất đằng sau con người. Thông qua đó, người đọc có thể tự rút kinh nghiệm để hoàn thiện chính mình, vươn đến một cuộc sống y' nghĩa, trọn vẹn hơn. Cũng chính bởi những thông điệp còn nóng hổi giá trị nên cả hai tác phẩm, dù đã ra đời ở thế kỉ trước, vẫn còn được bạn đọc đón nhận một cách tích cực, nồng nhiệt cho đến tận ngày nay. Thực hiện yêu cầu sau: Câu 1: Hãy phân tích thao tác, cấu trúc, nội dung của bài làm mẫu trên. Câu 2: Ở bài làm mẫu, người viết có bao nhiêu luận điểm để phân tích sự khác biệt giữa hai tác phẩm? Câu 3: Đề xuất một cách viết khác cho đề bài trên, 112 ======= PAGE 114 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? CÁC CÁCH TRIỂN KHAI KHÁC CỦA KIỂU BÀI Phân tích từng tác phẩm sau đó rút ra những điểm tương đồng, khác nhau Cách này dễ làm nhưng dung lượng sẽ khá dài, phần so sánh, đánh giá sẽ bị hạn chế, đễ bị trùng lặp ý và mục đích so sánh không thể hiện rõ ràng. 3. Thực hành viết Phân tích tác phẩm thứ nhất theo các phương diện xác định. Khi phân tích tác phẩm thứ hai sẽ tiến hành so sánh với tác phẩm thứ nhất Cách này dễ làm, tránh lặp ý nhưng trọng tâm sẽ đổ đồn vào tác phẩm thứ nhất, chỉ thích hợp cho kiểu bài có yêu cầu phụ. Phân tích kết hợp so sánh, đánh giá hai tác phẩm theo kiểu phương diện (dàn ý được cung cấp phía trên) Cách này thể hiện rõ nét bản chất kiểu bài so sánh, nhưng phần phân tích hai tác phẩm sẽ bị ít đi, và đòi hỏi người viết phải có tư duy tổng hợp nội dung tốt. Viết bài văn khoảng 600 chữ để so sánh, đánh giá giá trị nhân đạo trong hai tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao và “Vợ nhặt” của Kim Lân. Hướng dẫn thực hiện: «©_ Tìm đọc hai tác phẩm: Đọc lần một (nắm nội dung chính), đọc lần hai (tìm và chỉ ra các phương diện của giá trị nhân đạo trong mỗi tác phẩm) © _ So sánh các phương diện đã được rút ra từ hai tác phẩm (điểm giống, điểm khác ra sao) ® Giống nhau: về số lượng các phương diện, cách khai thác vấn đề nhân đạo, cách truyền tải trong tác phẩm e - Khác nhau: Khác về bối cảnh, mục đích của việc thể hiện giá trị nhân đạo; những phương diện mà tác phẩm này có nhưng tác phẩm kia chưa được nổi bật,... © _ Khi viết, cần lựa chọn kiểu dàn ý phù hợp với kiểu bài và năng lực của bản thân (Khuyến khích chọn kiểu 3 - kiểu được dạy chính ở bài học này - cho đề bài trên). e_ Khi viết xong, cần đọc kĩ lại bài để kiểm tra lỗi chính tả, ngữ pháp; kịp thời bổ sung, lược bỏ một số ý... 13 ======= PAGE 115 ======= E. LUYỆN TẬP L. Đọc văn bản, trả lời câu hỏi TRO TÀN RỰC RỠ Nguyễn Ngọc Tư Lúc đó nửa đêm rồi, lửa cao ngọn lắm. Cao hơn đọt dừa!. Tàn đóm tán loạn mỗi khi gió thổi qua quăng quật đống lửa. Mấy cây trức ven vách chịu nóng không nổi, vặn xoắn lại trước khi nổ như pháo chuột. Lần này nhà không lợp ngói nên không nghe ngói nổ, lửa cháy coi bộ êm đêm. Không giống như cây rơm trước sân cháy bạo phát bạo tàn, nhà của Tam và Nhàn cháy rất lâu, ánh sáng của nó rọi xa đến tận từng nóc nhà của xóm Thơm Rơm. “Cô lại bỏ chị em con Tí để chạy lại đó? Đã nói rồi, hay ho gì mà nửa đêm lặn lội...” — chồng càu nhàu trong tiếng võng đưa kèn kẹt. Em ấn mạnh thớt gỗ trên vào trái chuối, hai bả vai ê ẩm. Hôm nay chắc lại mưa chiều, mớ chuối ép phơi không đặng? nắng, thâm xịt lại đưới bóng mây cụm ba cụm bảy. Mùi mật chuối đặc sệt trong sân, đâu mũi em như trớt đấm đường. ~ Ông Tam đốt nhà phải đến năm lần rồi. - Em nhẩm tính bằng mấy ngón tay đen kịt mủ chuối. - Thì lần nào cũng như lần nấy, mắc gì phải coi. Không phải, chồng chưa từng nhìn thấy một đám cháy nào nên chẳng biết mỗi đống lửa mang một mùi khác nhau. Mùi những con mối cánh bén lửa, mùi lá mục, hay mùi nhựa khét xộc ra từ tấm bạt xóc nóc nhà và những sợi dây câu. Em phân biệt được đám cháy nào có mùi những con chuột bị nướng trui trên mái ngói, hay những cái trứng kiến quá lửa, đám cháy nào lần khuất mùi cơm sôi do Nhàn đang bắc nồi cơm lên bếp thì đằng trước Tam rề quẹt gas vào mái lá... Em có thể nhớ mồn một những lần nhà Nhàn cháy, nhớ bao lâu thì đám cháy rụi đi. Và tàn tro của chúng cũng khác nhau, ít đần ít đần, có khi gom lại không đầy hai thúng. Đám cháy đầu, nhà Nhàn còn trơ được bộ cột cái cháy sém và những mảnh ngói vỡ ám khói. Ngôi nhà tương đối khang trang đó là quà ra riêng hai bên sui gia BỐP lạ ======= PAGE 116 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? càng tạm bợ. Nhàn cười, nói với em: “Trước sau gì anh Tam cũng đốt, làm tử tế chỉ uổng công. Tụi này cũng đâu có khá giả gì”. Và cái tối vừa rồi, thứ dào dạt tan đi trong lửa chỉ là cái chòi cột cặm, không hơn. ~ Nhưng nó cháy lâu lắm, lâu nhất từ trước tới giờ. Em nói, khi hai bả vai đau nhừ nhằm lại gồng lên lần nữa. Trái chuối bẹt ra như một bàn tay xòe. Nghe cái mùi tóc hơi tanh cá và khét nắng của chồng phảng phất ở lưng. Mai chồng đi, mùi ấy còn vướng vất lại trên võng đến cả tuần, hành hạ em tới ổ. Em thường kể lại mấy vụ cháy Tam gây ra vì chồng không bao giờ chạy đến đó, kể cả lúc ghe biển vào bờ và chồng về thăm nhà. Tỉnh rụi và dửng dưng, như vợ chông Nhàn chưa bao giờ là xóm giềng, bè bạn. Dù vậy, em lại nghĩ là chồng muốn biết chuyện Nhàn làm gì sau mỗi bận nhà của hóa tro than. ~ Chị Nhàn không khóc đâu, tỉnh bơ luôn... Bởi tàn tích ra chỉ mấy cái nồi cà ràng? còn nguyên vẹn, chị đi dài xóm xin gạo, mót mớ củi ngoài sân nấu cơm. Ăn cái đã, rồi sống tiếp. Tam không bao giờ ăn cùng, anh không đói. No nê thỏa thuê, bụng căng đầy lửa, anh ngủ đến cả ngày sau. Nằm vạ vật bất cứ chỗ nào. Nhàn không bao giờ xin gạo ở nhà em nhưng có lần hỏi mua ít lá dừa nước. Em bảo tụi mình với nhau mà bán chác gì, em cho, có mấy cây so đũa bên hè, chị đốn luôn đi. Nhàn nhặt nhạnh, kết lại cái tổ đủ hai vợ chồng chị chui ra chui vào. Nhìn chị kéo mớ lá về, đuôi lá quét lên cỏ một vệt ướt đẫm, em không làm sao nhịn được việc nghĩ đến kết cuộc của chúng: một đống tro than. Ý nghĩ ấy nếu biến thành lời người ta sẽ cho em là đứa ăn nói xui xẻo, trù ếm. Nhưng ở cái xóm Thơm Rơm này, ai mà không biết Tam say xin suốt ngày, và những lúc ấy anh ta hay lên cơn tủi thân. Chỉ vì Nhàn mệt quá ngủ quên không ngồi chờ bên cửa, chỉ vì con chó hàng xóm sủa dữ quá, và Tam nghĩ “nó khinh ta”, hay vì cái rễ cây me tây gồ lên khỏi mặt đường làm anh ta vấp té. ¬ Phải khóc được thì tôi đâu có đốt nhà. - Tam phân trần, mặt hiền queo xẻn lén. Má Tam bảo Nhàn bỏ thằng trời đánh phứt cho rồi. Bây muốn ở vậy thì ở với má, bằng không lấy chồng khác má cũng cúng heo ăn mừng. Chị kêu trời đất, con mà bỏ ai cất nhà cho ảnh đốt, lỡ đốt nhà hàng xóm, kỳ lắm. Bà già đó thở hắt ra, điệu bộ của ông thầy lang đứng trước con bệnh không thuốc chữa, sau khi dỗ dành chúng tôi đã cố gắng hết sức. Từ phát hiện chồng có thể tủi thân chỉ vì cọng cỏ, ngọn gió chướng, tiếng chỉm kêu nước... Nhàn mang gởi những thứ chị nghĩ là cần thiết, để lúc lửa bén nóc nhà chị chỉ cần vơ lấy 3. Cà ràng: (phương ngữ Nam Bộ) bắt nguồn từ tiếng Khmer là “kran” có nghĩa là bếp chắn gió. Bếp cà ràng có thành có thành cao số 8 để chắn gió, chứa tro và đưa củi vào để chụm lửa. 115 ======= PAGE 117 ======= cải kẹp tóc rồi lách mình khỏi đám cháy sắp bùng lên, chị kiếm một chỗ ngồi nhìn Tam. Nhưng trong mắt Tam chỉ có đám cháy rực rỡ. Không có Nhàn. Như mọi đàn ông ở cái xó quê này, họ thường không còn nhìn thấy vợ mình chỉ sau đám cưới vài ba tháng, nhiều lắm là vài ba năm. Có khi đứng, khi quỳ, giữ một khoảng cách vừa phải với lửa, Tam say đắm, tê mê ngắm chúng cho đến khi những cái lưỡi đỏ khát thèm liếm láp đến mẩu gỗ cuối cùng. Vẻ mặt rạo rực đó là của một con người khác, không còn là thẳng Tam nghèo, chịu nhiều mất mát. Xóm giềng hồi đầu còn xúm lại tát nước cứu nhà, rồi thấy thằng chồng say sưa đứng ngó mái lá bị lửa ăn rào rào, và con vợ thì đắm đuối nhìn chồng, cả hai không có vẻ gì xa xót. Bà con nản, “thôi kệ cha cái tụi mắc đẳng đưới, nghèo mạt rệp' không lo, đốt nhà coi chơi là sao là sao là sao?”. Em cũng đến đám cháy như một người coi hát. Vở tuồng của những con người đổ nát. Hồi con Tí còn nhỏ em bồng nó theo, rồi kệ nó ngủ trên tay, em ở đó cho đến khi lửa rụi tàn. Thứ ánh sáng lộng lẫy đó xáo động em đến cả mấy tháng sau. Em thấy mình chính là Nhàn kia, một con đàn bà thèm khát được chồng nhìn thấy. Em, chồng và Tam, Nhàn cưới nhau cùng năm. Tam và Nhàn cưới trước, hai bảy tháng hai. Em nhớ vì đêm hai sáu đi đám đãi bạn ở nhà Nhàn về, em và chồng (lúc ấy chưa gọi là chồng) cùng say, ngọn đuốc trên tay anh lắc lư trên con đường xóm. Rồi tự dưng anh dừng lại, nhìn em mê đại. Cái nhìn ngây ngất và bừng cháy ngay cả khi anh quăng con cúi xuống sông. Tàn đóm lịm trong làn nước tối thẫm. [...] Năm đó em mười bảy tuổi, bốn tháng sau mới biết mình đang mang bầu. Suốt từ cái đêm nằm trên rơm đến khi bụng em phình ra không cứu văn được, anh không gắp em. Anh ngoắt tàu đò ra cửa Gành Hào đi bạn cho ghe biển. Chán ruộng đồng rồi, ra chơi với biển, anh bảo vậy. Chắc nụi, như một lời thề. Như một cuộc trốn chạy. Một bữa má anh nhắn tàu đò kêu thẳng con về gấp. Về cưới vợ. Bụng con nhỏ chang bang rồi. Chắc anh mất nhiều thời gian mới nhớ ra con nhỏ mà má nói là em, nhớ ra một đêm tối trời, say, đuốc chìm trên mặt nước, và mấy cọng rơm cứ cọ vào bẹn nhột ran. Đám cưới rước dâu bằng cửa sau, em lủn tủn tròn quay với cái bụng đội áo. Cái khác biệt duy nhất mà đám cưới mang lại là em chuyển sang nhà chồng sống, phụ mẹ chồng ép chuối phơi khô, bán cho thương lái. Chồng lại đi biển. Em nối xứ Thơm Rơm vào chồng bằng những câu chuyện kể, lúc hết con nước, chồng về. Ờ, cái hôm em sanh con Tí trăng sáng lắm, nằm trên xuồng ra trạm xá em cứ nghĩ chắc là đẻ trên xưồng. Con nhỏ thiệt lì, láu ăn nữa, đem ra là mút tay chóc chóc. Em lo là mẹ lẫn, hôm rồi lấy dầu lửa nhỏ mắt, gần 4. Mạt rệp: xác xơ, không có gì cả. 5. Chang bang: (Phương ngữ miền Nam) phình to (bụng) 116 ======= PAGE 118 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? đui. Chị Nhàn sinh đứa thứ hai hơi khó, em bé chết lưu. Em đi thăm thấy chị cứ nằm co, kệ sửa ướt đầm đìa áo. Ông Tam đạo này hay nhậu. Em kể và kể, vờ như bâng quơ, chuyện nọ xọ chuyện kia, như nhớ gì nói nấy. Như không phải em ấp ủ từng đêm trên cái giường trống hoác, những gì nên kể, những gì mà em nghĩ chồng muốn biết nhất. Chúng làm chồng muốn về nhà, để nghe. Cũng vài ba lần em hi vọng một vài câu chuyện nào đấy sẽ làm chồng nhìn em ngây say như tối ấy, cái nhìn mà vì nó em đã không kêu khi lưng trần chìm lút trong tấm thảm rơm. Em không kêu, chỉ tự gỡ mấy cọng rơm trên tóc, tự cài cúc áo và lắng lặng về. Ngồi đòng đưa trên cây khế mỗi khi thấy thèm chua, em nhấm nháp cái ánh mắt nóng rực kia, dù biết vốn cũng không phải vì mình và cho mình. Nhưng có sao đâu, đêm đó bóng em in mắt anh, trọn vẹn. Ý nghĩ đó làm em không khóc cả khi ba em bắt nằm dài ra bộ ngựa đánh bằng bất cứ gì ông vớ được trong tay. Lúc ấy bụng đội lên làm người em không làm sao sát ván, đầu và chân như hai phía của bập bênh, nhừ nhẫm# vì roi vọt. Nhưng cái nhìn đó không bao giờ em còn thấy lại. Cả khi em nói anh ơi con Tí lại có em rồi, đạp mạnh lắm, chắc con trai. Mắt chồng vẫn tối, lạnh, sâu. Sau mỗi chuyến đi biển chồng về, tiếng võng lại nghiến mòn đêm. Cho nhà có tiếng người, cho nó giống một gia đình đúng nghĩa, tiếng đàn bà nói rốp rẻn, đàn ông khạc nhổ và trẻ con cười, em lại kể chuyện mong lấp đầy khoảng lặng. Má sưng phổi vừa nằm ở nhà thương huyện cả tuần. Cô giáo chọn con Tí đi thi viết chữ đẹp cấp xã. Thằng Lanh thì mọc được sáu cái răng. Hôm chị Nhàn vớt con Hoa dưới mé kinh lên, ông Tam đang gặt. Nghe người ta kêu, ông chạy về đánh Nhàn lăn ra đất, đạp túi bụi vào bụng chị, xong cứ ôm xác con không chịu buông. Có hồi em thấy tuyệt vọng, đó là lúc em không biết nói gì lúc chồng về nằm cuộn trên võng như chui vào kén. Tẻ nhạt hết sức nơi cái xóm Thơm Rơm này, nơi những người đàn ông ngập trong rượu và mối lo thất mùa rớt giá, con cái ốm đau; nơi những người đàn bà suốt ngày cắm mặt vá víu những chỗ rách trong nhà. Chị Nhàn ít ra đường, em không thể tả cho chồng nghe giờ chị ốm hay đen, ăn mặc như xưa hay rách rưới, vẫn cười hay khóe miệng đìu hiu. Rồi Tam gây ra đám cháy đầu tiên. Người ta vẫn nhắc về nó như một sự kiện lớn của xóm Thơm Rơm, ngay cả khi chiến tranh cũng không thấy cháy lớn như vậy. Cháy trụi. Không còn gì. Những đám cháy sau này không gây ấn tượng sâu sắc cho họ nữa, nhàm rồi. Ngọn lửa chỉ khuấy đảo cái đời sống bình lặng của họ được một lần đó thôi. Chỉ mỗi em quan tâm, mỗi em biết không đám cháy nào giống hệt đám cháy nào. 6. Nhừ nhằm: (phương ngữ Nam Bộ) bầm dập. 117 ======= PAGE 119 ======= Chị Nhàn đi đâu thấy có cái cây nào cặm cột được đều vác về quăng xuống ao ngâm, biết thể nào cũng xài tới. Những chỉ tiết này chắc em đã kể nhiều lần, cái khó nhất là giữ vẻ bình thản. Ông Tam vẫn thường lang thang ngoài đường lúc nửa đêm, lè nhè chửi rủa chiếc xuông vuột dây trôi mất, chửi đom đóm, chửi rạ rơm vướng chân. ~ Nhưng sau lần cháy này, ông Tam sẽ không đốt nhà nữa. Em cố giấu nỗi tiếc nuối với cái ý nghĩ từ giờ mình chẳng còn vụ nhà cháy để kể. Điều đó có nghĩa chồng không về nữa, biết đâu. Ngồi kỳ cọ bàn tay đầy sẹo, trong nỗi đau đớn và nhẹ nhõm, trong cái trưa Thơm Rơm thẳng căng vắng rợn, trong tiếng đập cánh của những con ong vàng sà xuống hút mật chuối đang tươm ra, với cảm giác cắt nhát kéo vào sợi dây diều, em nói với người đàn ông cuộn trong kén chỉ tiết cuối cùng: — Nhàn đã không chạy ra khỏi đống lửa như mọi khi, anh à! Không biết chị thấy mệt rồi hay vì nghĩ chỉ ở giữa đám cháy Tam mới nhìn thấy chị. (Trích tập truyện “Đảo”, Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ) 1. Tìm hiểu tác giả, tác phẩm: Nguuễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại Đầm Dơi, Cà Mau. Là nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam. Với niềm đam mê viết lách, chị miệt mài viết như một cách giải tỏa và thể nghiệm, chị biết rằng chị muốn viết về những điều gần gũi nhất xung quanh cuộc sống của mình. Giọng văn chị đậm chất Nam bộ, là giọng kể mềm mại mà sâu cay về những cuộc đời éo le, những số phận chìm nổi. Cái chất miền quê sông nước ngấm vào các tác phẩm, thấm đầm cái tình của làng, của đất, của những con người chân chất hồn hậu nhưng ít nhiều gặp những bất hạnh. (Trích Trang nhà Quảng Đức, quangduc.com) Tro tàn rực rỡ là một truyện ngắn được rút từ tập truyện Đảo của Nguyễn Ngọc Tư. Truyện ngắn phản ánh bị kịch của những người phụ nữ khi phải tìm cách cứu vãn cuộc hôn nhân của mình, cũng như cuộc sống của nhân dân ta trong thời buổi đất nước còn khó khăn. Truyện ngắn này sau đó đã được đạo diễn Bùi Thạc Chuyên chuyển thể thành bộ phim điện ảnh cùng tên, công chiếu năm 2022 và đạt được nhiều giải thưởng danh giá. ======= PAGE 120 ======= lạp U1 - Ngöat Kia rực rỡ bao nhiêu? 2. Trả lời các câu hỏi sau: Câu 1: Em hãy xác định ngôi kể của truyện ngắn trên. Thông qua ngôi kể ấy, tâm lý của nhân vật nào được thể hiện một cách rõ ràng nhất? Câu 2: Theo em, truyện ngắn trên có cốt truyện đa tuyến hay đơn tuyến? Vì sao? Câu 3: Theo em, bi kịch của hai nhân vật Nhàn và “Em” là gì? Bi kịch của hai người phụ nữ ấy có gì giống nhau? Câu 4: Có ý kiến cho rằng: “Nhân uật Tam uừa đáng thương, cũng 0ừa đáng trách”. Em có đồng ý với ý kiến đó hay không? Tại sao? Câu 5: (Nâng cao) Tác phẩm cũng đã được chuyển thể thành phim điện ảnh dưới bàn tay của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên. Nếu có thời gian và mong muốn khám phá một câu chuyện “bước lên” màn ảnh sẽ thế nào, em có thể dành thời gian xem phim thử và có những cảm nhận, so sánh của mình về sự khác biệt giữa truyện và phim; cũng như bản thân em yêu thích “phiên bản” nào hơn. Lưu ý: Bài tập này được đưa ra uới mong môi tử rộng trải nghiệm nghệ thuật ẩa hình thúc của học sinh, không có đáp án, 0ì không có sai hay đúng, đơn thuần là cảm nhận riêng tư của mỗi độc giả tà khán giả khi thưởng thức, “nhâm nhủ” nghệ thuật theo cách của riêng mình. II. Đọc, nghe, xem: Nâng cao cảm thụ “Intouchables” (2011) (Tựa Việt: Tình bạn và địa vị) là một bộ phim điện ảnh chính kịch của Pháp do Olivier Nakache (Ô-li-vi-ê Na-ka-shê) và Éric Toledano (Ê-ri Tô-lơ-đa-nô) làm đạo diễn. Bộ phim kể về tình bạn của vị tỉ phú Phillippe bị bại liệt và anh chàng giúp việc da đen Driss. Tình bạn của họ không phân chia giai cấp, địa vị, giàu - nghèo. Họ đã cùng nhau vượt qua biết bao nhiêu khó khăn, thăng trầm của cuộc đời. Chính Driss đã giúp cho Phillippe vượt qua mặc cảm của một con người tàn tật để sống thật trọn vẹn, hơn hết là tìm kiếm hạnh phúc cho chính mình. 119 ======= PAGE 121 ======= cá “Intouchables” nhận được phản hồi tích cực của nhiều người xem, phần lớn trong số họ đã không kìm được nước mắt vì cảm động trước tình bạn đẹp đẽ của họ. “Intouchables” trở thành bộ phim có ngôn ngữ ngoài tiếng Anh bán cháy vé nhất trong thời điểm lúc bấy giờ và nhận được vô vàn đề cử cũng như giải thưởng sáng giá. Hãy cùng cô Sương Mai xem bộ phim trên để có thể cảm nhận rõ nét về giá trị của tình bạn trong cuộc sống. Ngoài ra, thông qua bộ phim, các bạn có thể cảm nhận được thế giới của chúng ta nhiệm màu biết bao nhiêu, và sẽ thật tuyệt vời nếu ta tìm được một người đồng hành để cùng chỉnh phục và khám phá thế gian tươi đẹp này. II. Luyện tập viết Câu 1: Viết một bài văn khoảng 600 chữ phân tích những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong đoạn trích “Xứ tưuết” của Kawabata. Câu 2: Hãy viết đoạn văn khoảng 300 chữ nêu cảm nhận của em về bộ phim “Intouch- ables”. Câu 3: Đoạn trích “Mắt sói” gợi ra cho em suy nghĩ gì về giá trị của những chuyến đi? Hãy chúa sẻ bằng đoạn văn 200 chữ, 120 ======= PAGE 122 ======= tìm dẻ -Í: Theo những dấu chân Người (Thơ ca Hồ Chi Minh) ======= PAGE 123 ======= YÊU CẦU CẦN ĐẠT © Nhận biết được những thông tin chính trong tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. s . Nhận biết được những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong sáng, tác của Hồ Chí Minh từ đó vận dụng vào việc đọc hiểu hai văn bản “Tuyên ngôn độc lập” và “Đối nguyệt” và các văn bản ở phần Thực hành đọc. e Hiểu được đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh đối với nền văn hóa, văn học dân tộc. ø- Nhận biết và chữa một số lỗi mơ hồ, logic trong diễn đạt. » _ Viết được một bức thư để trao đổi công việc hoặc một vấn đề nào đó © Trân trọng những di sản văn học do Hồ Chí Minh để lại, thấm nhuần tư tưởng yêu nước, tỉnh thần lạc quan... và các giá trị tư tưởng được gợi ra từ tác phẩm của tác giả. e© Học hỏi những phẩm chất tốt đẹp từ hành trình “theo những dấu chân Người”. A. KIẾN THỨC NGỮ VĂN 1. Vài nét về tiểu sử, con người Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc còn bé có tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động Cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 ở quê ngoại là làng Hoàng Trù, sau về quê nội là làng Kim Liên, huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Bác sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, cha là Nguyễn Sinh Sắc - một ngurời hiếu học và thông minh, từng là phó bảng và làm nghề dạy học, mẹ là Hoàng Thị Loạn - 122 ======= PAGE 124 ======= 1ặP ƯI ~ IYU(GI KI@ TỤC FỞ D0 HIHHIỆH người hiền hậu, đảm đang. Trước khi tham gia hoạt động Cách mạng, Người học chữ Hán, sau đó học tại trường Quốc học Huế, có thời gian dạy học tại trường Dục Thanh (Phan Thiết). Ngày 5 tháng 6 năm 1911 tại bến Nhà Rồng, Người ra đi tìm đường cứu nước. Năm 1919, Người gửi bản yêu sách của nhân dân An Nam tới hội nghị Hòa Bình ở Véc- xây ký tên là Nguyễn Ái Quốc. Năm 1920, Người dự Đại hội Tua và là một trong những thành viên sáng lập ra Đảng cộng sản Pháp. Từ năm 1923 - 1941, Hồ Chí Minh chủ yếu hoạt động ở Trung Quốc, Liên Xô, Thái Lan. Năm 1941, Bác trở về nước lãnh đạo phong trào cách mạng. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Người được bầu làm Chủ tịch nước và dẫn dắt phong trào Cách mạng đi đến những thắng lợi vẻ vang. Sau đó, Người luôn đảm nhiệm những chức vụ cao nhất của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo toàn dân giành thắng lợi trong 02 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Người qua đời ngày 2/9/1969. Cả cuộc đời của Người cống hiến hết cho sự nghiệp cách mạng dân tộc, trở thành nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam nói riêng, của quốc tế cộng sản nói chung. Bên cạnh sự nghiệp cách mạng, Người còn để lại một số di sản văn học quý giá, xứng đáng là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. 2. Khái quát về sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh Trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tác giả có vị trí đặc biệt quan trọng. Người đã đặt nền móng, khơi dòng cho sự hình thành, phát triển của khu- ynh hướng văn học cách mạng vô sản, đồng thời là tác giả của nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Tác phẩm của Hồ Chí Minh đến nay chưa được sưu tầm hết nhưng trên số lượng được công bố, có thể thấy số lượng tác phẩm của Hồ Chí Minh hết sức phong phú, gồm nhiều thể loại. Thể loại văn thơ được Bác sử dụng rất đa dạng, phong phú nhưng Người không bị ràng buộc bởi quy tắc văn chương, luật lệ hình thức thuần túy mà có sự linh hoạt để thể hiện ý ng, tình cảm, suy tư của riêng mình. Những lời nhắn nhủ của Bác về sứ mệnh của những người cầm bút: 1. “Văn hỏa, văn nghệ cũng là một mặt trận, anh chị em là những chiến sĩ trên mặt trận ấy.” 2. “Chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tường đúng.” 123 ======= PAGE 125 ======= 3. “Văn hóa nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị.” 4. “Dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia Cách mạng.“ 5, “Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta. Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi.” 6. “Để làm tròn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ phải rèn luyện đạo đức Cách mạng, nâng cao tỉnh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hòa mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau đồi nghề nghiệp; phải hết lòng giúp đỡ thanh niên làm cho văn nghệ nước nhà ngày càng thêm trẻ, thêm xuân.” 7. “Mọi người đồng lòng, chung sức xây dựng nước ta ngày càng phong phú về tư tưởng và nghệ thuật, góp phần xứng đáng với cả dân tộc đang đấu tranh anh dũng và xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh”. 3. Một số đặc điểm trong sáng tác của Hồ Chí Minh 3.1. Văn xuôi nghệ thuật (truyện và kí) « __ Mục đích: Vạch trần bộ mặt tàn ác, xảo trá, bịp bợm của chính quyền thực đân, châm biếm sâu cay vua quan phong kiến hèn nhát đưới trướng quân xâm lược; từ đó thể hiện lòng yêu nước nồng nàn và tỉnh thần tự hào về truyền thống anh dũng bất khuất của dân tộc. « __ Phong cách: Chất trí tuệ và tính hiện đại trong nghệ thuật trào phúng vừa sắc bén thâm thuý của phương Đông vừa hài hước hóm hỉnh của phương Tây. „ Tác phẩm: “Lời than uãn của bà Trưng Trắc” (1922), “Vi hành” (1923), “Những trò lễ hay là Viren tà Phan Bội Châu (1925),... 3,2. Văn chính luận + Cơ sở: khát vọng giải phóng dân tộc khỏi ách nô ệ. ‹ = Mục đích: đấu tranh chính trị, tiến công trực diện kẻ thù, giác ngộ quần chúng, thẻ hiện những nhiệm vụ Cách mạng của dân tộc qua những chặng đường lịch sử. ‹ — Phong cách: ngắn gọn, tư duy sắc sảo, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng thuyết phục, giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp. 124 ======= PAGE 126 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? « Tác phẩm tiêu biểu: 1. “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925) tố cáo đanh thép tội ác của thực dân Pháp ở thuộc địa, lay động người đọc bởi tính chân thực của các sự việc; tính chân xác của các dẫn chứng; chất sắc sảo, trí tuệ của nghệ thuật châm biếm, đá kích; tính mãnh liệt của tình cảm. 2. “Tuyên ngôn độc lập” (1945) công bố với toàn thể dân tộc và thế giới sự ra đời của nước Việt Nam độc lập; bố cục ngắn gọn, súc tích; lập luận chặt chẽ; lí lẽ đanh thép; bằng chứng xác thực; ngôn ngữ hùng hồn, giàu tính biểu cảm; thể hiện những tình cảm cao đẹp của Bác với dân tộc, nhân dân, nhân loại... 3. Các tác phẩm khác: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (1946), “Không có gì quý hơn độc lập tự do” (1966)... 3.3. Thơ ca tuyên truyền và vận động © __ Mục đích: hướng tới từng đối tượng, tầng lớp quần chúng cụ thể nhằm phục vụ các mục tiêu Cách mạng nhất định. » _. Nguyên tắc: đi từ những kinh nghiệm thông thường trong đời sống hàng ngày của nhân dân mà dẫn dắt tới đường lối chủ trương của Đảng. e __ Phong cách: mang đậm chất dân gian mà hiện đại, truyền thống mà tươi mới, linh hoạt, vui tươi, phong phú về thể điệu và thủ pháp nghệ thuật. e __ Một số tác phẩm tiêu biểu: “Cũ đội tự 0ệ”,“Ca dân cày”,... 3.4. Thơ cảm hứng trữ tình e _ Mục đích: Bộc lộ tâm tư, khát vọng của cá nhân Người ở một thời điểm cụ thể, biểu hiện chân thực và toàn điện con người Hồ Chí Minh. © _. Phong cách: tâm hồn dạt dào, nhạy cảm, rung động thiết tha với mọi vẻ đẹp của thế giới thiên nhiên, cảm hứng trữ tình có sự thống nhất giữa tình cảm đối với thiên nhiên và trách nhiệm lịch sử, xã hội. ® .. Một số tác phẩm tiêu biểu: “Nguyên tiêu”, “Vô đề”, “Cảnh khuya”. .. 125 ======= PAGE 127 ======= B. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN BẢN 1 TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP Hồ Chí Minh TRƯỚC KHI ĐỌC a. Tìm hiểu về bối cảnh lịch sử để có cho bản thân những kiến thức và hình dung nhất định về một sự kiện trọng đại của đất nước. s- Quan sát những bức ảnh hoặc đoạn băng quay cảnh Chủ tịch Hồ Chí Mirth đọc “Tuyên ngôn độc lập” » Xem ảnh ngôi nhà và căn gác (số 48, phố Hàng Ngang, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội) nơi Bác Hồ viết bản “Tuyên ngôn độc lập” se Nghe mộtsố bài hát: “Nắng Ba Đình” (Bùi Công Kì), đọc một số đoạn thơ có lấy cảm hứng từ ngày 2/9/1945 như “Theo chân Bác” (Tố Hữu). b. Cá nhân em có cảm xúc gì khi nghe hoặc đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” của Bác? ĐỌC VĂN BẢN Hõi đồng bào cả nước, “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có Ï quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền củaCách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đăng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và ¡ ụ bình đẳng về quyền lợi”. 126 ======= PAGE 128 ======= lập U1 - Ngoài kia rực rõ bao nhiêu? Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho đân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn. Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông - Dương để mở thêm căn cứ đánh - Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng trị đến Bắc kỳ hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật. Trước ngày mồng 9 tháng 3, biết bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không dáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt minh ”¬' “hơn nữa. : __ Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.. + _. Tà — , , ` x l 2. ĐA ` › 2â tz „.- Tuy vậy, đối với nước Pháp, đồng bào ta vẫn-git một thái độ khoan hồng và nhân đạo. \ RẺ 27 ======= PAGE 129 ======= Sau cuộc biến động ngày mồng 9 tháng 3, Việt minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiêu người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ. Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi đậy giành chính quyên lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiêng xích thực đân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa. Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn đân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp trớc mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp. Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam. Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự đo, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tỉnh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995) 128 ======= PAGE 130 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? SAU KHI ĐỌC Bối cảnh lịch sử: Ngày 19/08/1945, Cách mạng tháng Tám thành công ở Hà Nội. Ngày 26/08/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 02/09/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng vạn đồng bào. Thiên ngôn độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: tuyên bố chấm dứt chế độ thuộc địa phong kiến ở nước ta và mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do của dân tộc. Tuyên ngôn độc lập là một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, đây sức thuyết phục. Trả lời các câu hỏi sau: Câu 1: Hãy cho biết trong tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” Bác đã trích dẫn những bản Tuyên ngôn nào? Vì sao Bác lại trích dẫn những văn bản Tuyên ngôn đó? Câu 2: Tại sao trong “Tuyên ngôn độc lập”, tác gia lại trình bày về 5 năm từ mùa thu năm 1940 đến mùa thu năm 1945 đài hơn dung lượng trình bày về 80 năm đất nước ta chịu xiềng xích của thực dân? Câu 3: Ngoài “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh cùng những bản Tuyên ngôn được nhắc đến trong tác phẩm, hãy kể tên những bản Tuyên ngôn hoặc những bài phát biểu nổi tiếng của những nhà chính trị, nhà văn hóa trên thế giới mà em biết. Câu 4: Trong “Tuyên ngôn độc lập”, Hồ Chí Minh đã dành không ít câu văn để luận tội thực dân Pháp. Hãy phân tích nghệ thuật lập luận của tác giả trong đoạn văn luận tội kẻ thù. Câu 5: Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đánh giá “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau: “Tài nghệ ở đây là dầu dựng được một lập luận chặt che, đưa ra những luận điểm, những bằng chứng không ai chỗi cãi được uà đằng san những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, 129 ======= PAGE 131 ======= - tầm uăn hóa lớn, đã tổng kết được trong một uăn bản ngắn sọn, trong sáng, khúc chiệt kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh oì độc lập, tự do, 0ì nhân quyền của dân tộc uà của nhân loại”. Hãy phân tích “Tuyên ngôn độc lập” để làm sáng tỏ ý kiến trên. Câu 6: Qua tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh chị có suy nghử gì về ý thức, trách nhiệm của thanh niên ngày nay đối với đất nước? VĂN BẢN 2 ĐỐI NGUYỆT Hồ Chí Minh TRƯỚC KHI ĐỌC 1. Giới thiệu chung “Đối nguyệt” được viết vào năm 1944, viết bằng chữ Hán và được xem là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ đề trăng và thiên nhiên. 2. Câu hỏi gợi mở a. Đọc một số bài thơ có đề tài về trăng “Trung thu I. II”, “Đêm lạnh”, “Cảm hứng đọc Thiên gia thi”, “Đêm thu”... b. Hoài Thanh từng nhận xét “Thơ Bác đây trăng”. Em hãy đọc các bài thơ về trăng của Bác và có cho riêng mình những cảm nhận về vầng trăng trong những, áng thơ của Người. ĐỌC VĂN BẢN Phiên âm Song ntgoqi nguuệt mình lung cổ thụ, Nguyệt di thụ ảnh đáo song Hền, Quân cơ, quốc kế thương đàm liễu, Huề chẩm song bàng đổi nguyệt miền. ======= PAGE 132 ======= xept và — sơ: nhớ TMC PØ 00 HHICH£ Dịch nghĩa Ngoài cửa số ánh trăng lồng trên câu cổ tĨụ, Ánh trăng nhích đần bóng cổ thụ lại trước cửa số: Việc quân, uiệc nước bàn bạc xong rồi, Xách gối đến bên cửa số, nằm ngủ trước ánh trăng. Dịch thơ Ngöài song, trăng rọi câu sân, Ánh trăng nhích bóng cây gần trước song. Việc quân, oiệc nước bàn xong, Gỗi khuya ngon giấc bên song trăng nhòm. (Bản dịch của Nam Trân) SAU KHI ĐỌC Câu 1: Bài thơ được viết theo thể thơ nào? Việc lựa chọn thể thơ này có tác dụng gì đối với việc thể hiện cảm xúc của chủ thể trữ tình? Câu 2: Xác định không gian và thời gian được nhắc đến trong văn bản. Câu 3: Hãy làm rõ nghệ thuật đối của Đường thi trong bài thơ trên. Câu 4: Đứng trước ánh trăng, nhân vật trữ tình đã có cảm xúc như thế nào? Câu 5; Dù bận việc công, việc nước nhưng tác giả vẫn luôn hướng mình về vẻ đẹp của thiên nhiên, điều này thể hiện nét đẹp gì trong tâm hồn của Hồ Chí Minh? Câu 6: Cùng với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” hiện nay, qua bài thơ này, em học được điều gì từ Bác? Câu 7: Trong thơ của Hồ Chí Minh, ta sẽ nhận thấy cùng một lúc “giữa dòng bàn bạc việc quân và khuya về bát ngát trắng ngân đầy thuyền” (Nguyên Tiêu), “Việc quân việc nước đã bàn“ và “Xách bương dắt trẻ ra vườn tưới rau”, kết hợp cùng ý thơ trong “Đối nguyệt”, hãy nhận xét vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh. ======= PAGE 133 ======= C. TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH I. Kiến thức chung: Nhận điện và khắc phục lỗi logic, lỗi mơ hồ 1. Lỗi logic - cách nhận điện và khắc phục a. Xuất hiện sự mâu thuẫn, đối nghịch giữa các ý trong cùng một câu. Câu văn: Kết quả bài thị có khả quan, điểm của các em tương đổi thấp. Khả quan là tình hình đang có dấu hiệu tích cực vậy nên không thể nói là điểm của các em tương đối thấp được. Cách sửa là lược bỏ, thay thế một trong hai ý. Sửa lại: Kết quả bài thi không khả quan, điểm của các em tương đối thấp. b. Xuất hiện sự nhầm lẫn các bình diện khi trỏ oào một đổi tượng. Ví dụ 2: Câu văn: Giữa tô uàn câu bút xuất sắc 0ề thể loại truyền kì, chỉ có “Truyền kì mạn lục” tưới xứng danh “Huên cổ kì bút” mà thôi. Ở đây, người viết đã nhầm lẫn giữa hai bình diện là tác giả (cây bú) với tác phẩm (Truyền kì mạn lục), từ đó hai câu không có sự kết nối. Cách sửa: Thống nhất các ý về cùng một bình điện. Sửa lại: Giữa tô oàn sáng tác xuất sắc 0ề thể loại truyền kì, chỉ có “Truyền kì mạn lục” mới xứng danh “thiên cổ kì bút” mà thôi. c. Đặt các đôi tượng không cùng cấp độ trong mối quan hệ ngang hàng, đồng đẳng. Vídu 3: Câu văn: Dân cự ở các tỉnh thành, quận huyện, thôn xóm, chung cư cần nghiêm túc thực hiện các biện pháp phòng chống dịch COVID-19. Đơn vị chung cư không tương đồng, ngang hàng với các đơn vị như tỉnh thành, quận huyện, thôn xóm. Cách sửa: cần nhất quán về mặt cấp độ của các đối tượng khi được nhắc đến trong mối quan hệ đồng đẳng. Sửa lại: Dân cư ở các tỉnh thành, quận huyện, thôn xóm, bản làng cần nghiêm túc thực hiện các biện pháp phòng chống dịch COVID-19. 132 ======= PAGE 134 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? BẠN ƠI CẦN NHỚ Khi sửa lỗi, cần suy đoán và bắt đúng mạch ý mà người viết đang muốn biểu đạt để có thể lựa chọn cách sửa thích hợp. Với văn bản văn học, có xuất hiện yếu ~” tố “phi logic” được tác giả cố tình tạo ra để thể hiện quan điểm nghệ thuật của mình. Ở trường hợp đỏ, ta không thể nói tác giả đang mắc lỗi. 2. Lỗi mơ hồ - cách nhận diện và khắc phục. Lỗi mơ hồ xuất hiện ở câu sở hữu cấu trúc mà người đọc có thể suy đoán và diễn giải theo nhiều cách hiểu khác nhau. Câu văn: Cơn têu mẹ. Ca bố nữa. Cả em trai nữa. Sự mơ hồ của câu văn này dẫn đến hai cách hiểu: (1) Con yêu mẹ, bố và em trai; (2) Con yêu mẹ, bố và em trai cũng yêu mẹ nữa. Sửa lại: Con yêu mẹ. Con yêu cả bố oà em trai nữa. Câu văn: Trone một biển báo tuyên truyền pháp luật có ghỉ: Gia đình hai c0H 0 chồng hạnh phúc. Ví dụ trên là điển hình cho lỗi mơ hồ do ngắt các thành phần trong câu một cách ngẫu nhiên khiến cho ý biểu đạt của câu bị chệch hướng, sai lạc. Cách sửa: Có thể thêm dấu phẩu để ngăn cách các uế cho mạch lạc, rõ ràng: Gia đình hai con, ợ chồng hạnh phúc. Khi sửa lỗi câu mơ hồ, trước tiên, bạn cần xác định được ý muốn biểu đạt của người viết, sau đó, đọc lại câu để biết cần sắp xếp lại trật tự các thành tố ra sao trong câu hoặc thêm thắt, lược bỏ từ ngữ, dấu câu vào vị trí như thế nào nhằm diễn đạt ý nghĩa cho tường minh, khúc chiết. 141 ======= PAGE 135 ======= ị BẠN ƠI CẦN NHỚ I Hãy phân biệt lỗi câu mơ hồ với câu đa nghĩa xuất hiện trong văn bản văn 1 Ú học thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả nha. ~_~———— 3. Bài tập vận dụng Bài 1: Chỉ ra lỗi logic và sửa lại trong những câu văn dưới đây: a. Để bổ trợ cho công việc dạy học của mình, Lan đã đi học kĩ năng nấu ăn. b. Được coi là đứa con tỉnh thần cuối cùng với thể tài truyện truyền kì, Vũ Trinh đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong diễn tiến văn học trung đại Việt Nam. c. Bạn cứ yên tâm về giá cả, giá bán hôm nay là 130.000 VNĐ, hôm qua còn tới tận 300.000 VNĐ cơ. d. Sự sơ suất trong việc kiểm kê bạn đã ảnh hưởng rất nhiều tới tài sản của công ty, đồng nghiệp bên phòng Marketing vì bạn mà bị sa thải. Bài 2: Chỉ ra lỗi câu mơ hồ và sửa lại trong những câu văn dưới đây: a. Ở đây, chúng tôi nhận xay bột trẻ em. b. Bất ngờ bà chủ khách sạn cao nhất Phú Yên vừa được rao bán 500 tỷ đồng. c. Em trai của chủ nhà tử vong cùng hai con bỏng nặng. Bài 3: Những trường hợp dưới đây có thể hiểu theo các cách như nào? Các trường hợp, đó có mắc lỗi mơ hồ trong diễn đạt hay không? Bạn hãy giải thích vì sao. a. Sông Đáu chảy uào đời tôi Như mẹ tôi gánh nặng rẽ uào ngõ sau mỗi buổi chiều đi làm Uề uất uả Tôi dụi mặt uào lưng người mát một mảnh sông đêm. (Sông đáy, Nguyễn Quang Thiều) b. Bà già đi chợ cầu Đông Bói xem một quẻ lãu chồng lợi chăng Thầy bói xem quẻ bảo rằng: Lợi thì có lợi nhưng răng không còn. (Ca dao, dân ca) 1344 ======= PAGE 136 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? €. Ta tới mình, mình uới ta Lòng ta sau trước mặn mà định nình. (Việt Bắc, Tố Hữu) D. VIẾT VIẾT THƯ TRAO ĐỔI CÔNG VIỆC HOẶC NHỮNG VẤN ĐỀ Xà HỘI Trong xã hội hiện đại việc viết thư đã dần được thay thế bằng cách hình thức trao gửi thông tin khác như tin nhắn điện tử, gọi điện thoại từ xa. Tuy nhiên trong một số trường hợp, để đạt tính nghiêm túc, trang trọng, chuyên nghiệp, ta vẫn cần viết thư để trao đổi công việc hoặc bàn bạc, bày tỏ quan điểm về một vấn đề cấp thiết nào đó trong xã hội. 1. Tri thức về kiểu bài Xác định rõ ràng đối tượng nhận thư (cá nhân, cơ quan, tổ chức,...) Thể hiện cụ thể, rành mạch về mục đích viết và những vấn đề chính sẽ được trình bày trong thư. Trình bày khúc chiết, tường mỉnh về thông tín muốn chuyển tải hoặc tiến hành triển khai các luận điểm, nội dung chặt chẽ, hợp lí để thuyết phục người đọc thư. Ngôn từ cần sử dụng một cách phủ hợp với mục đích viết và người đọc thư, đặc biệt là từ ngữ xưng hô. Cấu trúc một lá thư trao đổi công việc có thể theo hướng sau: - Thông tin người nhận: họ tên, địa chủ, thông tin liên lạc,... - Thông tin người gửi: họ tên, địa chỉ, thông tin liên lạc,... ~ Địa điểm, thứ, ngày, tháng, năm - Lời chào, hỏi thăm. - Trao đổi công việc (chia thành nhiều đoạn khác nhau) - Kết thúc vấn đề, hi vọng người đọc sẽ đọc được và phản hồi. - Chào tạm biệt, ký tên. 135 ======= PAGE 137 ======= 2. Đọc ngữ liệu tham khảo và trả lời câu hỏi Thiên đàng, năm 2017 Chú Kevin Carter kính mến! Cháu xin tự giới thiệu cháu là một lá thư đến từ thiên đàng, ở đây cháu đã có cuộc gặp gỡ kì diệu với một cô bé ở làng Ayod, miền Nam 5Sudan. Cô bé đã nhờ cháu gửi gắm toàn bộ những tâm tư, tình cảm đến chú. Và rồi, cháu đã lên cỗ xe của thần đưa thư Herrnes tốt bụng để đến được tay chú vào năm 1999 - năm mà chú lên đến đỉnh cao vinh quang và Dưới đây là những câu chữ tuy non nớt nhưng chân thành, còn tươi màu mực viết được in đậm trên mình cháu, còn thấm đẫm những tâm sự - điều mà những lá thư điện tử rất khó có được. Chú hãy dùng cả tấm lòng mình để đọc những dòng chữ này nhé! “Kính gửi chú Kevin Carterf Cháu đã muốn viết thư cho chú từ lâu nhưng lại không biết gửi đến chú bằng cách nào, thật may vì đã gặp lá thư thần kì này. Người bạn ấy đã hứa sẽ đến gặp chú và chắc giờ này đã ở trên tay chú rồi, chú nhỉ? Chú còn nhớ miền nam Sudan vào khoảng năm 1993 không? Một vùng đất đói nghèo và bệnh tật, chiến tranh và chết chóc luôn song hành? Cháu chính là con đẻ của vùng đất này, là đứa trẻ đáng thương - nhân vật chính xuất hiện trong bức ảnh “Kên kên chờ đợi” của chú. Cháu còn nhớ năm đó, cháu là một bé gái còn nhỏ xíu, vậy mà cuộc nội chiến cũng không buông tha cho những đứa trẻ non nớt như cháu, cái cảnh chết chóc gần kề không còn gì là xa lạ với con người quê hương Sudan. Khi đó, cháu luôn trong tình trạng ngôi co ro ôm lấy bộ xương của cơ thể ốm yếu vì suy dinh dưỡng. Chính đôi mắt đen láy to hơn nửa khuôn mặt của cháu đã chứng kiến những bạn nhỏ của mình ngã xuống với tiếng rên rỉ, tiếng khóc đai dẳng. Cái đói kéo dài cùng cơn khát rát họng diễn ra thường xuyên nơi vùng đất khô cần, toàn đất sét, sỏi đá này. Ở đây dường như chưa ai từng biết đến một bữa ăn thực sự là thế nào, ngoài những chiếc bánh quy được bà mẹ làm cho bằng đất cát thì cháu và những đứa trẻ khác luôn cố kiếm những cỏ cây, rêu hay bất cứ thứ gì có thể nhét vào miệng để cầm cự cái đói. Chú Carter kính mến! Cháu biết chú luôn thương xót cho những số phận đói nghèo như cháu. Thật kì lạ là trên thiên đường, cháu có thể “nhìn” thấy được những suy nghĩ thiện và ác trong đầu của 136 ======= PAGE 138 ======= lập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? người khác một cách rõ ràng. Chú đã thương cho những đứa trẻ ban đầu khi được mẹ sinh ra có một cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh, lành lặn. Nhưng chiến tranh, đói nghèo đã khiến cơ thể chúng cháu gầy nhom như một bộ hài cốt. Chú đã thương cho những đứa trẻ vì cái đầu to quá khổ, không tương xứng với trọng lượng cơ thể, nên chúng đã bò nhiều hơn là đi. Thêm nữa, chúng cháu phải bò để không bỏ sót bất kì thứ gì có thể ăn được dưới đất. Dạ dày của chúng cháu thật tốt, chú nhỉ! Bây giờ thì quay lại câu chuyện cái ngày cháu gặp chú lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng. Cái ngày chú đến mang theo chiếc máy ảnh, cháu đã rất vui và cảm động vì đây là bức ảnh đầu tiên trong cuộc đời cháu. Chú đã không chê bộ xương trần và cơ thể đen nhém của cháu. Nhưng cháu lại không thể đem khoe bức ảnh ấy với các bạn của mình trên thiên đàng. Khi cháu đang cố gắng lê lết cơ thể mình đến chỗ cứu hộ để nhận lương thực thì cháu lại mệt quá, cháu muốn nghỉ một chút rồi bò đi tiếp. Rồi một con kền kền xuất hiện phía sau. Cháu có cảm giác nó chỉ đợi cháu gục xuống là những móng vuốt sắc nhọn kia sẽ găm vào cơ thể của cháu. Nhưng cháu không hoảng sợ, ở chỗ cháu loài chỉm này nhiều lắm. Chú đã không quên trách nhiệm của một người nghệ sĩ chuyên chụp ảnh chiến trường Nam Phi, chú đã chụp lại cảnh tượng đó. Chú Carter! Cháu rất biết ơn chú! Nhờ bức ảnh của chú, mọi người có thể nhìn thấy cuộc sống của chúng cháu ở vùng Sudan này. Có thể họ sẽ hiểu hơn những gì cháu và mọi người nơi đây đã phải chịu đựng: đói nghèo và bệnh tật, không đồ ăn, không nước uống, không học tập, chỉ có tử thần luôn thường trực. Nhờ bức ảnh của chú, có thể mọi người sẽ tìm hiểu và biết được rằng trên thế giới, cứ 10 giây trôi qua là có một trẻ em chết vì đói. Và biết đâu họ sẽ đến với chúng cháu bằng một tấm lòng tốt như chú, hay họ sẽ biết trân trọng hơn những thứ họ đang có, như vậy cũng tuyệt vời lắm rồi! Cháu biết những ngày qua, vì bức ảnh chú chụp cháu, chú đã nhận phải nhiều lời chỉ trích của những người không hiểu chú - những người cho rằng chú lạnh lùng vô cảm khi bấm máy. Nhưng chú biết không, khi viết lá thư này, cháu vẫn hình dung ra đôi mắt trong lành và tràn đầy yêu thương của chú. Tạo hóa đã ban tặng cho mỗi con người một đôi mắt, để làm gì nếu không phải để quan sát cuộc sống này? Nhưng cuộc sống thì rộng lớn chẳng ai có thể quan sát được hết, có những sự thật vẫn bị chôn vùi, có những điều tốt đẹp chưa được tìm thấy. Đúng không chú Carter? Mọi người đâu có thấy giọt nước mắt của chú sau ống kính máy ánh, đâu thấy được hết những khổ đau, dẫn vặt của chú vì hiện thực mà chú chứng kiến? Thay vì chỉ trích, họ phải nên nói lời “cảm ơn” với chú, vì chú xứng đáng +1 ======= PAGE 139 ======= nhận được điều đó. Với cháu, chú là một nghệ sĩ rhiếp ảnh vĩ đại và mãi mãi bất tử! 1 ện cho chú Carter của cháu ành sứ mệnh của mình, trao gửi nguyên vẹn những tình dn o và hạnh phúc lắm! Còn rất nhiều người đang ch Ù ệt chú ở đây. Chúc chú an lành! Cầu nguy Đến đây cháu đã hoàn th của cô bé làng Ayod. Cháu thấy tự hà cháu trở về để kí thác tâm tư nên cháu xin từ bị Tạm biệt Bài thi của bạn Nguyễn Thị Thảo Ngân trong cuộc thị oiết thư LIPU ling Thực hiện yêu cầu sau: Câu 1: Hãy chia bú An thành các nền Hà Ạ " 1: Hãy chia bức thư trên thành các phần thành tố, nêu nội dung và ghỉ sang cột bên phải của những thành phần đó. Câu 2: Ở lá thư trên, người viết đã gửi gắ _-~. ư trên, người viết đã gửi gắm tâm sự tới ai? Hình thức của bức thư có điều gì đặc biệt? Theo em, vì sao tác giả lại sử dụng hình thức đó? Câu 3: Bức thư nà iết nhằ này được viết nhằm mục đích gì? Người viết trao đổi về vấn đề gì Câu 4: Em rút đư ï ợc kinh nghiệm øì n thâ trên? ghiệm gì cho bản thân trong việc viết thư thông qua lá hứ 3. Thực hành viết Đề bài: Viết một lá Iết một lá thư gửi tới một người mà b PM ạn ngưỡng mộ (Nhóm biên soạn bộ sách “Đi kiếm mình : học hỏi với các bướ c bước viết th tư trao đổi công viê .. ˆ Là h : | lã “VÂt -#: Đuặch ệt vấn đề đá : mẽ gi bộ sinh “Kế nó, „ tức vớ sóc €c hoặc một vấn đề đáng quan tâm của các tật Ông”), nơi thế gian rộng lớn” đồng tình và xin đựC Gợi ý cách thực hiện: Bước 1: Chuẩn bị viết ® Hình dung và xác đi c định đối tự ơn ời nhà * - Định hình sẵn nội dung muối ẽ ... nhận thư - người mà bạn ngưỡn§ mộ. n gửi gắm trong lá thư. Có thể là bày tỏ niềm mến mữ trần quý; có thể kể ve kỉ niệm lữa mứn ø : ì h và ngườ li ó;... Bước 2: Tìm ý, lập dàn ý *® Tìmý 138 ======= PAGE 140 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Dựa vào thân thế, lai lịch, con người nội tâm, tình hình hiện tại của người nhận thư để có thể mở đầu thư, dẫn dắt. Có thể hỏi thăm sức khỏe của người đó, kể về cuộc sống hiện tại của mình,... Dựa vào những tâm sự, mong muốn gửi gắm tới người nhận thư để xác định nội dung chính, các ý thành phần để kiến tạo, bổ sung, dẫn dắt tới vấn đề chính. Có thể đặt câu hỏi xung quanh để tìm ra nội dưng muốn viết: 1. Bạn biết tới người đó trong hoàn cảnh nào? 2.. Hành trình mà bạn và người đó gắn bó, đồng bước bên nhau trải qua như nào? 3. Có cột mốc gì đáng nhớ giữa hai người? 4.. Người đó dạy bạn những điều gì? Bạn trưởng thành đó bởi những điều tốt đẹp nào từ người nhận thư? se Lập dàný Qua những ý đã tìm được ở bước trên, bạn hãy phát triển thành một dàn ý thô, nên triển khai thành ba phần rõ ràng bao gồm mở bài, thân bài và kết bài. 1. Mở bài: Nêu được thông tin cần trao gửi hoặc vấn đề muốn bàn luận. Với một văn bản thư từ không cần quá cầu kì, nghỉ thức cứng nhắc, có thể bắt đầu bằng việc hỏi thắm sức khỏe, cuộc sống hiện tại. 2. Thân bài: s _ Triển khai các nội dung phù hợp với mục đích viết thư. ® _ Tùy thuộc vào mong muốn của cá nhân bạn để xác định giọng văn trang trọng hoặc thân tình. Điều này sẽ chỉ phối hầu hết các phần của lá thư. 3. Kết bài: Nêu lại vấn đề, nội dung vừa trình bày. Có thể gửi lời cảm ơm, biết ơn tới người nhận thư. Bước 3: Viết ® Sử dụng ngôn ngữ phù hợp với mối quan hệ giữa mình và người nhận thư; với những mong muốn của bản thân. Nên sử dụng ngôn ngữ chân thành, nhiệt huyết, cởi mớ, có cá tính riêng. ®_ Tùy vào hình thức tồn tại của lá thư được lựa chọn (thư tay hoặc thư điện tử), bạn 139 ======= PAGE 141 ======= hãy trình bày thông tin ở đầu thư và cuối thư cho phù hợp theo thể thức chưng.. Bước 4: Kiểm tra, chỉnh sửa, hoàn thiện «_ Rà soát, kiểm tra lại nội dung đã viết, cần đảm bảo các phần phải hướng tới chủ đý, nội dung đã được xác định, không lan man, xa rời. e_ Xem xét lại văn phong, ngôn từ đã sử dụng, đặc biệt chú ý tới đã đồng nhất ngôn từ xưng hô hay chưa. e©_ Kiểm tra lại lỗi chính tả, lỗi ngữ pháp, lỗi điễn đạt của câu văn, đoạn văn. E. LUYỆN TẬP L Đọc văn bản, trả lời câu hỏi NGƯỜI ĐI TÌM HÌNH CỦA NƯỚC Chế Lan Viên Đất nước đẹp tô cùng. Nhưng Bác phải ra đi Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác Khi bờ bãi đần lui làng xóm khuất Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre Đêm xa nước đầu tiên, ni nữ ngủ Sóng uỗ dưới thân tầu đâu phải sóng quê hương Trời từ đâu chẳng xanh màu xứ sử Xã nước rồi, càng hiểu nước đau thương Lũ chúng ta ngủ trong giường chiết hẹp Giấc mơ con đè nát cuộc đời con luộc đựng trong một là áo đẹp ======= PAGE 142 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dàu Ta lại mặc cho mưa tôn à gió thổi Làng ta thành con rối Cho cuộc đời giật dâu Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện oua Lê Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ Hiểu sao hết những tữm lòng lãnh tụ Tìm đường ẩi cho dân tộc theo đi Hiểu sao hệt “Người ải tìm hình của Nước” Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người Một góc quê hương nửa đời quen thuộc Hay một đấng tô hình sương khói xa xôi Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất Sắc nàng nghìn xưn, sắc đỏ tương lai Thế ải đứng của toàn dân lộc Một cách oinh hoa cho hai mươi lăm triệu coH người Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê Một uiên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya? ======= PAGE 143 ======= 142 Đời bồi tàu lệnh đênh theo sóng bể Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi Những đất tự do, những trời nô lệ Những con đường cách mạng đang tìm đi Đêm mơ nước, ngàu thấu hình của nước Câu cỏ trong chiêm bao xanh sắc biết quê nhà Ăn một miếng ngon cũng đẳng lòng uì Tổ quốc Chẳng tên lòng khi ngắm một nhành hoa Ngày mai dân ta sẽ sống sao đâu? Sông Hồng chảy 0ề đâu? Và lịch sử? Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ oươn mây? Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao? Nụ cười sẽ ra sao? Ơi, độc lập! Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc Khi tự do oề chói ở trên đầu Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông Cây cay đẳng đã ra mùa quả ngọt Người cay đẳng đã chia phần hạnh phúc Sao Đàng bay theo liềm búa công nông ======= PAGE 144 ======= lạp U1 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc “Cơm áo là đâu! Hạnh phúc đâu rồi!” Hình của Đảng lồng trong hình của Nước Phút khúc đầu tiên là phút Bác Hồ cười Bác thấu: đân ta bưng bát cơm trồ hôi nước mắt Ruộng theo trâu uỀ lại uới người cầu Mỏ thiế, hầm than, rừng uàng, bể bạc Không còn người bỏ xác bên đường ra Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát Điện theo trăng ào phòng ngủ công nhân Những kẻ quê mùa đã thành trí thức Tắm tối cần lao nay hoá những anh hùng Nước Việt Nam nghìn năm Đỉnh Lý Trần Lê Thành nước Việt nhân dân trong mắt suối Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói Những đời thường cũng có bóng hoa che Ôi! Đường đến uới Lênin là đường uề Tổ quốc... Tuyết Mat-xcg-0a sáng ấu lạnh trăm lần 143 ======= PAGE 145 ======= Trong tuyết trắng nh đọng nhiều nước mắt Lênin mất rồi. Nhưng Bác chẳng dừng chân Luận cương của Lêmin theo Người 0ê quê Việt Biên siới còn xa. Nhưng Bác thấu đã dế rồi Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai. (“Ánh sáng uà phù sa” — 1960) 1. Tìm hiểu tác giả, tác phẩm Chế Lan Viên tên là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 23/10/1920, quê ở xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị nhưng chủ yếu gắn bó với Quy Nhơn.Ông là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ Việt Nam thế kỉ XX. Với hơn 50 năm lao động nghệ thuật, ông đã để lại 13 tập thơ với hơn một nghìn bài thơ. Thơ ông không chỉ nổi trôi ở chất trí tuệ sáng tạo mà còn ở vốn tri thức văn hóa phong phú, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, phương, Đông và phương Tây. Người di tìm hình hình của nước nằm trong hệ thống các tác phẩm viết về đề tài lãnh tụ, vốn rất nổi bật trong đi sản văn chương - nghệ thuật Việt Nam. Bài thơ nằm trong tập “Ánh sáng và phù sa” (năm 1960) là bước ngoặt quan trọng trên hành trình mỹ học của Chế Lan Viên, Sự kiện ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước - thầy giáo Nguyễn Tất Thành bước chân xuống con tàu Amiral Latouche Tréville trên bến Nhà Rồng và chặng đường 30 năm bôn ba đi tìm đường cứu nước trở thành niềm cảm hứng để Chế Lan Viên viết nên áng thơ sống mãi với thời gian. ======= PAGE 146 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Câu 1: Bài thơ này lấy cảm hứng sáng tác từ ai? Hãy liệt kê một số sự kiện mà bạn biết được gợi nhắc trong bài thơ. Câu 2: Hãy nhận xét tấm lòng, tình yêu với quê hương đất nước của tác giả được thể hiện trong bài thơ. Câu 3: Hãy sưu tâm một số bài thơ khác cùng có cảm hứng từ Chủ tịch Hồ Chí Minh để mở rộng vốn đọc của bản thân mình. Câu 4: Em hiểu gì về mong muốn của “tôi” trong hai câu thơ đầu tiên: Đất nước đẹp tô cùng. Nhưng Bác phải ra đi Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa Hẫn Bác Hãy viết cảm nhận của em bằng một đoạn văn diễn dịch khoảng 300 chữ. II. Đọc, nghe, xem: Nâng cao cảm thự (Tranh “Bác câu cá bên bờ suỗi Lâ-nin” của Nguyễn Kao Thương) Nguyễn Kao Thương là một người độc đáo trong làng mỹ thuật Việt Nam. Ông là người đầu tiên ở Việt Nam và toàn Đông Dương bắn rơi máy bay của giặc Pháp. Ông cũng là người đặt tên cho Trường Trung học Mỹ thuật trang trí Đồng Nai, tiền thân của Trường Cao đẳng Mỹ thuật trang trí Đồng Nai ngày nay và làm hiệu trưởng cho đến ngày nghỉ hưu. Năm 2012, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. 145 ======= PAGE 147 ======= Tranh “Bác câu cá bên bờ suối Lê-niw” lấy cảm hứng từ những tháng ngày hoạt động cách mạng của Bác tại Cao Bằng, được triển lãm trong Triển lãm tranh về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bức tranh gây ấn tượng vì sự tĩnh lặng, được ví giống như hình của Nguyễn Trãi đang nhàn cư ở ẩn hay Nguyễn Khuyến ngồi tĩnh lặng bên ao thu. Bằng trí tưởng tượng và cảm nhận cá nhân của mình, em hãy thưởng thức và cảm nhận vẻ đẹp trong bức họa trên cùng cô Sương Mai nhé. II Luyện tập viết Câu 1: Sau khi xem bức tranh “Bác câu cá bên bờ suối Lê min” và đọc bài thơ “Đối nguyệt” của Hồ Chí Minh, em hãy viết một bài văn 600 chữ trình bày suy nghĩ của em về giá trị của tỉnh thần lạc quan trong cuộc sống ngày hôm nay. Câu 2: Hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ nêu cảm nhận của em về bức tranh “Bác câu cá bên bờ suối Lê-niH”. 146 ======= PAGE 148 ======= § hủ để s : Từ tiếng cười hài kịch đến 'sân khấu cuộc đòi (Hài kịch) ======= PAGE 149 ======= \ £? liững ci "qð Hi" ÌZZy su e6, cuậc đời YÊU CẦU CẦN ĐẠT e _ Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của hài kịch như: xung đột, hành động, nhân vật, lời thoại, thủ pháp trào phúng. e© - Nêu được nội dung bao quát của văn bản (nhận biết được các chỉ tiết tiêu biểu, đề tài, chủ đề, ý nghĩa; tình cảm, thái độ của tác giả...) của hài kịch và truyện cười. » _ Từ đó có những thái độ đúng đắn: chê bai những thói hư tật xấu, phê phán cái giả dối, biết trân trọng những suy nghĩ trong sáng, nhân văn, những hành động trung thực. ° Nhận thức c được gã trị của nN cười hông chỉ để thư giãn, giải trí, mà còn @£ HÃY MIỄN PHÌ A. KIẾN THỨC NGỮ VĂN 1. Khái niệm hài kịch Hài kịch là một thể loại kịch, dùng tiếng cười để chế giểu những thới tật, hiện tượng đáng phê phán (vụ lợi, kệch cỡm, cực đoan, lạc hậu, ảo tưởng, ...) vốn đi chệch các chuẩn mực tốt đẹp của con người và cộng đồng. Tiếng cười hài kịch cất lên từ sự vênh lệch, không tương thích giữa các mục đích và phương tiện thực hiện, bản chất và biểu hiện, hành động và hoàn cảnh, tham vọng cá nhân và các khả năng thực hiện,... tức là từ những cái ngộ nghĩnh, ngược đời, bất hợp lý. Hài kịch có thể được triển khai theo các hướng khác nhau tùy theo tính chất của tiếng cười nhằm vào đối tượng: từ tiếng cười bông đùa, hài hước đến tiếng cười châm biếm, ma mai hay tiếng cười lật tẩy, tố cáo, đả kích... Bằng tiếng cười phủ nhận “những thiếu sót không nên có”, hài kịch muốn làm thay đổi cách nhìn của người đọc, người xem về một hiện tượng xã hội nào đó, khẳng định lối sống lành mạnh, lạc quan, hợp với lẽ phải và tiến bộ xã hội. Bởi vậy, hài kịch nhất thiết phải đưa một kết cục có hậu, vui vẻ với người đọc, người xem. 148 ======= PAGE 150 ======= lập U1 - Ngoại Kia rực rỡ bao nhiêu? 2. Nhân vật, tình huống, xung đột, hành động và kết cấu hài kịch Nhân vật trong hải kịch là những nhân vật tiêu biểu cho một thói tật đáng cười, đáng phê phán, hoặc những nhân vật thường xuyên lầm lẫn, có cách ứng xử không phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Nhân vật hài kịch hiếm khi là kẻ cùng hung cực ác, mà phổ biến hơn là người có khiếm khuyết, sai lâm cần khắc phục. Những nhân vật hài kịch như vậy có tính cách nhất quán, được xây dựng theo lối cường điệu, tô đậm nét đáng cười, chứ không được khai thác qua toàn bộ tiểu sử. Trong hài kịch còn có thể xuất hiện một số nhân vật châm chích, pha trò hài hước, hay nhân vật đại điện cho một lực lượng đối kháng tiến bộ nào đó, song đó thường chỉ là những nhân vật phụ. Tình huống hài kịch là với những toan tính đời thường, làm nổi bật những thói tật đáng cười của con người. Tình huống hài kịch có thể là những tình huống hiểu lầm, trớ trêu, dở khóc, đở cười, song không bị đát và luôn có thể được giải quyết tốt đẹp. Xung đột trong hài kịch thường được xây dựng trên cơ sở mâu thuẫn giữa những tham vọng, toan tỉnh vật chất, mưu kế tầm thường, bất chấp đạo đức, lẽ phải,... (phần nhiều là ảo tưởng) với những chuẩn mực và tiến bộ xã hội. Xung đột trong hài kịch dù căng thắng đến mấy, cũng luôn có khả năng được giải quyết theo hướng cái xấu, cái không hoàn thiện bị phủ nhận; cái tốt đẹp, tiến bộ được khẳng định. Hành động trong hài kịch chủ yếu là hành động bên ngoài, những toan tính, mưu mô của nhân vật đều bộc lộ hết ra lời (hài kịch không nhấn mạnh trăn trở nội tâm - hành động bên trong). Hành động trong hài kịch hướng tới tô đậm nét tính cách chủ đạo của nhân vật hay tính chất cực đoan của những mưu mộ, toan tính, chứ không phải làm nổi bật sự kiện, bởi vậy, diễn biến hành động qua mỗi hồi kịch thường mở ra các bình điện khác nhau của cái đáng cười hơn là thúc đẩy xung đột kịch đi tới hồi kết. Kết cấu hài kịch thông thường được tổ chức trên cơ sở một hành động kịch nhất quán: mở đầu bằng việc giới thiệu các nhân vật với thói tật và những toan tính, mưu mô, ảo tưởng của họ, thắt nút theo cách đưa các nhân vật vào tình huống khó xử, đẩy xung đột kịch đi tới đỉnh điểm theo đà thắng thế của toan tính, ảo tưởng, giải quyết xung đột bằng một mưu mẹo hay một yếu tố ngẫu nhiên để bước vào kết thúc với sự sụp đổ của những toan tính, ảo tưởng đáng cười. 3. Thủ pháp trào phúng và ngôn từ trong hài kịch Thủ pháp trào phúng bao gồm các cách thức bất ngờ làm bật lên tiếng cười giêu cợt, mỉa mai, châm biếm, hạ thấp đối tượng. Hài kịch thường sử dụng những thủ pháp trào phúng như: tạo tình huống hiểu lầm hài hước, trớ trêu, phóng đại cử chỉ, điệu bộ, thói tật, tạo tương phản gây cười (hoán đổi các cảnh, các vị trí nhân vật, đồ vật một cách nghịch lý, cải trang lộ liễu, đột ngột biến dạng bất cân xứng...) Tai ======= PAGE 151 ======= # Về ngôn từ, cả trong chỉ dẫn sân khấu, cách gọi tên nhân vật cũng như trong lời đối thoại, độc thoại, hài kịch sử dụng rất nhiều biện pháp như: cường điệu, tương phản, lặp, nhại, chơi chữ, nói bóng gió, nói lái, nói quá, nói lỡ, nói không ra tiếng... Đối thoại trong hài kịch có khi được tổ chức theo kiểu đối chọi chan chát, “ăn miếng trả miếng” trong tỉnh huống các nhân vật tố cáo lẫn nhau, có khi được triển khai xoay quanh tình huống “ông nói gà, bà nói vịt” thể hiện sự lệch kênh về ý thức, cũng có khi đột ngột bỏ lửng lời thoại khiến người đọc, người xem bật cười. B. ĐỌC VĂN BẢN 1 NHÂN VẬT QUAN TRỌNG (Trích “Quan thanh tra”) Ni-cô-lai Gô-gôn (Nicolai Gosol) TRƯỚC KHI ĐỌC 1. Tóm tắt hài kịch “Quan thanh tra” Hồi I: Thị trưởng một thị trấn tỉnh lẻ ở nước Nga đột ngột triệu tập quan chức địa phương để tuyên bố về việc nhận được mật báo: có một quan thanh tra cấp cao bí mật tới thị trấn. Cả bọn kinh hãi, bởi có “đốt đuốc giữa ban ngày” cũng không thấy có việc gì trong thị trấn có thể coi là tử tế: thị trưởng công khai hà hiếp dân chúng, cùng với chánh án, công khai nhận quà biếu hối lộ; chánh án để tòa án bẩn thu, giấy má lẫn với roi ngựa đi săn, bổi thầm thì luôn say xin; chủ sự bưu vụ chuyên đọc trộm thư từ, viên kiểm học Lu-ca Lu-kích {Luka Lukitr) bê trễ công việc, coi giáo dục là “nghề chết tiệt”; trưởng viện tế bần Ác-tê- mi Phi-líp-pô-vích (Artemi Philippovitr) bỏ mặc người bệnh “tự ốm, tự khỏi”, song lại đo thám mọi chuyện để viết thư tố cáo kẻ khác; còn vợ thị trưởng An-na An-drê-ép-na (Anna Andreevna) và con gái thị trưởng Ma-ri-a An-tô-nốp-na (Maria Antonovna) là những kẻ đầu óc rỗng tuếch, đài các rởm, chỉ biết đua đòi học làm sang và hãnh tiến,... Theo bẩm báo của hai gã địa chủ chuyên ngồi lê đôi mách, cả bọn tưởng một người khách dừng chân tại quán trọ thị trấn Thôn chịu trả tiền, cũng không chu dể là quan thanh tra, nên sửa Soạn đến mời. ======= PAGE 152 ======= ~#Ƒ TC Tloy rr cơm rượm si ĐO HÌECH. là một nhân viên thư kí quèn, “đoảng vị, không được việc gì”, tại văn phòng của một vụ ở EE-téc-bua (Petarsburg). Anh ta từng sống chui sống chui lủi để trốn tiền trọ, phải rời khỏi thủ đô về tỉnh lẻ, sa vào bải bạc, cháy túi, song vẫn luôn giữ diện mạo bánh bao, mơ ước “sống trên đời chỉ cốt để hái những bông hoa khoái lạc”. Đang khi Khơ-lét-xta-cốp hết tiền, đói khát, bị mắc kẹt ở quán trọ, thì đám quan chức trong thị trấn, tưởng gã là quan thanh tra, tới khủm núm cung phụng. Thị trưởng mời Khơ-lét-xta-cốp thăm thú những địa điểm trong thị trấn đã được chuẩn bị trước và chuyển đến ở nhà mình để đễ bể bố trí cảnh sát canh gác, ngăn không cho tiếp xúc với những người bị hà hiếp, oan khuất. Hồi II: Khơ-lét-xta-cốp hồn nhiên nhập vai quan thanh tra, đi thăm thú, tiệc tùng, rồi chuyển đến ở nhà thị trưởng. Việc được thết đãi linh đình tạo cảm hứng cho gã khoác lác về vị thế sang trọng và danh tiếng tưởng tượng của mình. Vợ và con gái thị trưởng sản lại làm thân. Lũ quan tham trong thị trấn lại thêm phần sợ hãi. Hồi IV: Quan chức, những kẻ tò mò và cả những người bị oan khuất trong thị trấn lũ lượt xin vào gặp Khơ-lét-xta-cốp. Gã thoạt đầu còn sượng sùng vay tiền đám quan chức sau thì tiến tới đòi hỏi, quát nạt để ăn hối lộ công khai của cả người bị hiếp đáp. Khơ-lét- xta-cốp còn tận dụng cơ hội để tán tỉnh cả vợ lẫn con gái thị trưởng. Sau khi cao hứng cầu hôn với con gái ông ta, Khơ-lét-xta-cốp lo bại lộ chân tướng, lấy cớ phải tạm rời thị trấn “đến nhà ông chú giàu sụ”, yêu cầu cung cấp xe cộ, hành trang, tiền bạc, để nhanh chóng cao chạy xa bay. Hồi V: Thị trưởng vênh váo, ra oai với dám dưới quyền, say sưa với việc con gái mình sẽ kết hôn với “quan lớn” thanh tra, gia đình sẽ chuyển về thủ đô, sẽ thật thần thế, danh giá. Đang khi các nhân vật “có máu mặt” trong thị trấn đến chúc mừng gia đình thị trưởng, thì chủ sự bưu vụ đột ngột bảo tin Khơ-lét-xta-cốp không phải là quan thanh tra. Chủ sự bưu vụ đưa ra cho mọi người xem bức thư của Khơ-lét-xta-cốp gửi cho anh bạn nhà báo (tên là Giẻ Rách) kể ra sự thật về chuyện hiểu nhầm, nhận xét châm biểm về thị trưởng và hết thảy các nhân vật. Thị trưởng vớ mộng, cay đắng nói với mọi người: “Các ngài cười gt Các ngài đang cười giêu chính mình đấy!“. Đúng lúc đó, một viên hiến binh thình lình xuất hiện, tuyên bố: Quan thanh tra đích thực vừa mới đến thành phố, yêu cầu tất cả tới trình diện. Lời tuyên bố “như sét đánh” làm cho tất cả kinh hoàng, dờ ra như hóa đá, chuyển vào Lớp Câm - kết thúc vở hài kịch. Nhân vật quan trọng là đoạn trích từ lớp VỊ, hồi II của hài kịch Quan thanh tra. 151 ======= PAGE 153 ======= 2, Câu hỏi gợi mở a. Hãy kể tên một vở hài kịch em từng được xem ở nhà hát hoặc xem trên truyền hình. b. Theo em, những vở hài kịch có gần gũi với cuộc sống đời thường? Nếu có hoặc không thì vì sao? c. Có những vở hài kịch “cười xong quên luôn”, có những vở hài kịch để lại nhiều dư âm sau những tràng cười sảng khoái. Ở tải nghiệm cá nhân của mình, em có đồng tình với điều này? ĐỌC VĂN BẢN HỒI II LỚP VI (Các vai trên, thêm An-na An-đre-ép-na và Ma-ri-a An-tô-tốp-na) THỊ TRƯỞNG - Xin giới thiệu gia đình tôi: Đây là nhà tôi và cháu gái. KHƠ-LÉT-XTA-CỐP (cúi chào) - Thưa bà, tôi rất sung sướng được cái hân hạnh được đặc biệt gặp bà. AN-NA AN- ĐRÊ-ÉP-NA - Dạ, chúng tôi còn vui mừng hơn khi được gặp một người như ông... KHƠ-LÉT-XTA-CỐP (điệu bộ giả tạo) - Xin lỗi bà, trái hẳn lại, tôi mới là người vui mừng hơn. AN-NA AN-ĐRÊ-ÉP-NA - Đâu phải thế! Ông nói như thế thực là quá khen chúng tôi. Xin rước ông ngồi ạ! KHƠ-LÉT-XTA-CỐP - Được đứng bên cạnh bà đã là hạnh phúc lắm rồi; nhưng nếu bà muốn thì tôi xin phép ngồi ạ. Được ngồi gần bà tôi sướng quá đấy ạ. AN-NA AN-ĐRÊ-ÉP-NA - Xin lỗi ông, quả thực tôi không dám nhận những lời khen của ông. Ông quen ở thủ đô, nay phải đi Vôi-a-gi-rốp-ca*, chắc khó chịu lắm đấy nhỉ? KHƠ-LÉT-XTA-CỐP - Thực khó chịu quá sức tưởng tượng. Tôi quen sống trong cái xã hội thượng lưu, comprenez vous?*, vậy mà bỗng phải đi đường xa: nào hàng quán bẩn 152 ======= PAGE 154 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? thảu, nào đân đen ngu đốt tối tăm... Xin thú thực là nếu không gặp được dịp may mắn như thế này... (nhìn kĩ An-na An-đrê-ép-na và làm điệu bộ giả tạo trước mặt mụ), nó đền bù lại tất cả... AN-NA AN-ĐRÊ-ÉP-NA - Như vậy quả thực ông phải vất vả, khó chịu nhiều lắm. KHO-LÉT-XTA-CỐP - Nhưng thưa bà, trong giờ phút này, tôi lại thấy rất dễ chịu. AN-NA AN-ĐRÊ-ÉP-NA - Ông cứ nói quá! Ông làm vinh dự cho tôi nhiều lắm, tôi thật không xứng chút nào. KHƠ-LÉT-XTA-CỐP - Vì lẽ gì không xứng kia ạ? Thưa bà, bà rất xứng đáng... AN-NA AN-ĐRÊ-ÉP-NA - Tôi ở chốn quê mùa... KHƠ-LÉT-XTA-CỐP - Nhưng, thưa bà, thôn quê cũng có những dòng sông nhỏ, những trái đồi xinh chứ, tất nhiên ai lại đi so sánh sánh thôn quê với Fề-téc-bua! Chà, Fề-téc-bual Thực đất, đời sống ở thủ đô sao mà... Có lẽ bà tưởng tôi là một anh chàng thư kí nhì nhằng? Không, quan vụ trưởng là bạn thân với tôi đấy. Ngài vỗ vai tôi thế này, nói “Người anh em, lại đằng nhà ăn với mình!”. Mỗi ngày, tôi chỉ đến vụ có hai phút, đủ để ra lệnh làm như thế này, làm như thế kia! Ở đất đã có một viên công chức, một anh thạo việc bàn giấy, cứ cầm bút một cái xoạch, xoạch, thảo như bay tất cả trong công văn cho tôi. Họ muốn cử tôi làm quan phó cho đoàn tuyển cử. Nhưng tôi nghĩ nhận chức làm quái gì. Lại còn một thằng hầu lúc nào cũng cầm bàn chải chạy theo khi tôi lên cầu thang: “Ông I-van A- lếch-xan-đrô-ví ch, ông cho phép con đánh hầu ông” (Nói với viên thị trưởng). Kìa, sao các ông lại đứng thế? Xin mời các ông ngồi! THỊ TRƯỞNG - Dạ, theo ngạch bậc, chúng tôi phải đứng ạ. ÁC-TÊ-MI PHI-LÍP-PÔ-VÍCH - Chúng tôi đứng cũng được ạ. LU-CA LU-KÍCH - Ông cứ mặc chúng tôi, xin đừng bận tâm ạ. KHƠ-LÉT-XTA-CỐP - Không cần ngạch bậc, lễ nghỉ gì cả. Mời các ông cứ ngồi. (Thị trưởng và cả bọn ngồi). Tôi không thích lễ nghi phiền phức đâu nhé: trái lại, bao giờ tôi cũng cố tìm cách lấn tránh cho không ai biết mình. Nhưng không tài nào lấn tránh được chứ lị, không biết làm cách nào! Tôi vừa có mặt ở đâu, đã thấy có người nói: “Kia ông I-van A-lếch-xan-đrô-vích đi kia kia”. Có lần họ lại tưởng tôi là tổng tư lệnh. 153 ======= PAGE 155 ======= Thế là bọn lính từ trong bốt vội vàng nhảy xổ ra, bồng súng chào. Sau đó viên sĩ quan vốn biết tôi lắm, nói với tôi rằng: “Kìa, người anh em, thế mà bọn mình cứ tưởng lầm đẳng ấy là tổng tư lệnh”. AN-NA AN-ĐRÊ-ÉP-NA - Thế kia đấy! KHO-LÉT-XTA-CỐP - Tôi quen nhiều đào hát lắm. Vì tôi cũng có đi xem nhiều vở ca kịch vui... Tôi thường gặp các nhà văn. Tôi là bạn cánh hẩu' của Pu-skin (Pushkin). Nhiều lần tôi bảo hẳn là: “Thế nào người anh em Pu-skin?” Hắn ta trả lời: “Bình thường, người anh em ạ, vẫn như mọi khi thôi”... Hắn là con người rất độc đáo. AN-NA AN-ĐRÊ-ÉP-NA - Như vậy là ông cũng viết văn nữa kia à? Làm nhà sáng tác chắc thú vị lắm thì phải. Chắc ông cũng gửi bài đăng trên các tạp chí chứ? KHƠ-LÉT-XTA-CỐP - Phải, tôi cũng có cho đăng trên tạp chí nhiều bài. Tôi viết nhiều tác phẩm lắm: Đám cưới chàng Phi-gu-rô (Figaro), Rô-be (Robe) con quy, Noóc-ma (Nor- ma). Tôi không nhớ tên nhiều tác phẩm khác. Tôi viết mọi tác phẩm cũng là do tình cờ thôi. Tôi có muốn đâu, nhưng ban giám đốc nhà hát bảo tôi: “Người anh em, làm ơn viết cho tôi cái gì đi chứ!”. Tôi nghĩ thâm: “Được lắm, người anh em ạ”. Thế rồi hình như chỉ một buổi tối là tôi viết xong tất cả, ai cũng phải kinh ngạc. Tôi suy nghĩ thực để dàng lạ lùng. Tất cả những tác phẩm kí tên nam tước Brăm-bê-út, Chiến hạm Hi vọng, Điện tín Mát-xcơ-va (Moskoa)...tất cả đều do tôi viết. AN-NA AN-ĐRÊ-ÉP-NA - Vậy ra ông là nam tước Brăm-bê-út à? KHƠ-LÉT-XTA-CỐP - Cố nhiên: tôi chữa thơ cho tất cả bọn họ. Thằng Xmiếc-đìn (Smirdin) phải tặng tôi bốn chục nghìn rúp để tôi làm việc ấy cho nó đấy. AN-NA ÁN-ĐRÊ-ÉP-NA - Như vậy, đúng ông là tác giả cuốn lu-ri Mi-lốt-xlúp- xki (Yuri Miloslavsky) rồi. KHƠ-LÉT-XTA-CÔP - Phải, đó là sáng tác của tôi. AN-NA AN-ĐRÊ-ÉP-NA - Tôi đoán đúng ngay mà. MA-RI-A AN-TÔ-NỐP-NA - Kìa, mợ ơi, cuốn ấy có ghỉ rõ tên tác giả là Da-gốt-xkin 1. (Khẩu ngữ) Bạn bè tụ tập kết giao với nhau, thường để la cả chơi bời hoặc làm những việc không chính đáng. 154 ======= PAGE 156 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? (Zagoskin) cơ mà! AN-NA AN-ĐRÊ-ÉP-NA - Đấy, thấy chưa, tao biết mà, đến ở đây mà mày cũng sắp cãi đấy. KHƠ-LÉT-XTA-CỐP - Ò đúng đấy, chính Da-gốt-xkin là tác giả cuốn sách đó, nhưng còn một cuốn lu-ri Mi-lốt-xláp-chỉ khác nữa kia, cuốn ấy mới là của tôi. AN-NA AN-ĐRÊ-ÉP-NA - Vậy cuốn tối đọc đúng là cuốn ông viết đấy: Ông viết hay quá đi mất thôi! KHOƠ-LÉT-XTA-CỐP - Thú thật là tôi sống bằng nghề văn đấy. Tôi có cái nhà đẹp nhất ở Iề-téc-bua. Ai cũng biết nhà của ông I-van A-lễch-xan đrô-vích (nói với cả bọn). Các ông ạ, sau này nếu có dịp các ông đến Fề-téc-bua mời các ông vui lòng lại chơi, lại chơi nhà tôi. Tôi cũng hay mở những cuộc khiêu vũ gia đình lắm. AN-NA AN-ĐRÊ-ÉP-NA - Tôi chắc rằng những cuộc khiêu vũ do ông mở, tráng lệ huy hoàng không thể tả được. KHƠ-LÉT-XTA-CỐP - Còn phải nói! Này nhé, thí dụ, trên bàn, tôi cho bày một quả dưa hấu đáng giá bảy trăm rúp. Xúp nấu xong để nguyên trong xoong từ thành Pa-ri (Paris) nước Pháp được chở thẳng sang bằng tàu thủy, khi mở nắp xoong ra, hơi bốc lên nghỉ ngút chưa từng thấy ở trên đời này. Ngày nào tôi cũng dự những cuộc khiêu vũ. Rồi thì chúng tôi họp nhau chơi bài câm, quan thượng thư Bộ ngoại giao, các vị đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Anh, nước Pháp, nước Đức và tôi. Chơi có thể nói là mệt lử đi như sắp chết mới thôi. Khi về nhà, chạy nhanh lên tầng gác thứ tư, chỉ kịp nói với mụ đầu bếp: “Này, Ma-ru-xca (Maruska), đưa áo khoác đây”. Tôi nói lảm nhảm gì ấy nhỉ? À, quên mất, tôi ở ngay gác hai. Chỉ có mỗi một cầu thang để leo lên thôi... Mỗi khi tôi ngủ dậy, ai mà ghé nhìn chỗ hành lang nhà tôi thì sẽ thấy lạ lắm. Bá tước, hoàng thân lúc nhúc xô đẩy nhau, nói lào xào như ong ấy, chỉ nghe thấy tiếng giè... giè... giè... Đôi khi có cả quan thượng thư... (Thị trưởng và mọi người khác khúm núm đứng cả dậy). Họ viết thư cho tôi đề: “Kính gửi cụ lớn. Có lần tôi điều khiển cả một vụ. Câu chuyện kể cũng lạ: một hôm quan vụ trưởng biến đi đâu mất, không ai biết là đi nơi nào. Cổ nhiên thế là mọi người bàn tán xôn xao: ai thế chân bây giờ? Vô số anh nguyên soái cũng muốn tấp tểnh leo lên, nhưng, xin các anh, khó lắm, không cáng đáng được đâu. Mới nhìn tưởng đễ nhưng đi sâu vào xem, chà, hóc búa lắm! Không biết làm cách nào, họ phải cầy cục tìm đến tôi. Thế là lập tức ngoài phố 155 ======= PAGE 157 ======= nhan nhản những phái viên được củ đến chỗ tôi, hết phái viên, phái viên lại phái viên,... các ông thử tưởng tượng xem, có đến ba vạn năm nghìn phái viên, hoàn cảnh khó xứ quá, tôi xin hỏi các ông làm thế nào? Họ nói: “I-van A-lếch-xan-đrô-vích, xin mời ông ra điều khiến vụ ngay”. Thú thật là lúc ấy tôi cũng hơi bối rối, mặc cả quần áo ngủ ra tiếp, định bụng từ chối, nhưng lại nghĩ nếu mình làm thế thì việc sẽ đến tai hoàng thượng; rồi công việc làm ăn của mình lại... Thế là tôi nói: “Thưa các ngài, được, xin vui lòng, tôi nhận nhiệm vụ, tôi nhận, làm thì làm, tôi nhận, nhưng đối với tôi ấy à, không lơ mơ đâu nhé, không, Tôi để ý đấy nhé! Tối... Mà thật, khi tôi qua bên vụ, thật đúng như động đất ấy, tất cả mọi người đều sợ, cứ run bắn người lên như chiếc lá ấy. (Thị trưởng và mọi người đều run câm cập vì hoảng sợ; Khơ-lét-xta-cốp càng nói càng hăng). Hừ! Tôi không thích đùa đâu nhé. Tôi làm cho tất cả bọn chúng nó khiếp vía lên. Ngay đến Quốc vụ viện còn phải hãi tôi kia. Chứ sao? Tôi thế. Tôi chả xem thằng nào là gì... Tôi nói với tất cả bọn họ: tự tôi biết tôi là ai, tự tôi. Đâu cũng tôi, đâu cũng tôi. Ngày nào tôi cũng vào trong điện. Chỉ mai kia là tôi sẽ được thăng đại thống ch... (Trượt chân, suýt ngã xuống sàn, nhưng cả bọn công chức kính cần đỡ y lên). THỊ TRƯỞNG (lại gần, toàn thân run cầm cập, cố gắng lắp bắp) - Hừ... hừ... qua...qua... qua... qua... KHƠ-LÉT-XTA-CỐP (nói nhanh đõng đạc) - Cái gì? THỊ TRƯỞNG - Hừ... hừ... qua... qua... qua... qua... KHƠ-LÉT-XTA-CỐP (vẫn nói với giọng cũ) - Tôi chẳng hiểu gì cả? Ông nói lăng nhăng cái gì ấy. THỊ TRƯỞNG - Qua... qua... qua... quan lớn ngài có muốn nghỉ ngơi không ạ? Buồng đây ạ, có đủ mọi thứ cân dùng! KHƠ-LÉT-XTA-CỐP - Thật dấm dớ, nghỉ với chẳng ngơi. Ừ thì nghỉ, xin sẵn sàng.. Các ông ạ, bữa ăn vừa rồi khá lă... ấm... Tôi bằng lòng lắm. Tôi bằng lòng lắm. Cá thu nạc muối ngon tuyệt, cá thu nạc muối ngon tuyệt! Đi ra, vào buồng bên cạnh, thị trường theo sau. (Ni-cô-lai Gô-gôn, Quan thanh tra, Vũ Đức Phúc dịch”, NXB Lao động - Trung tâm Văn hôa Ngôn ngữ Đông Tâu, Hà Nội, 2009, tr. 62 - 69) 166 ======= PAGE 158 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? SAU KHI ĐỌC Câu 1: Dựa vào phần tóm tắt hài kịch “Quan thanh tra”, hãy xác định tình huống hiểu Tâm của vở kịch. Câu 2: Đối chiếu hoàn cảnh thực tế của Khơ - lét - xta- cốp (qua phần tóm tắt hồi II của vở kịch) với cuộc sống “thượng lưu” mà nhân vật khoe khoang trong đoạn trích, hãy lí giải nhân vật này đáng cười ở điểm nào. Câu 3: Thị trưởng cùng viên kiểm học Lu-ca Lu-kích, trưởng viện bần Ác-tê-mi Phi- líp-pô-vích thể hiện thái độ thế nào trước sự khoác lác, ra oai của Kha-két-xta-cốp? Vì sao? Câu 4: Nhân vật An-na An-drê-ép-na và Ma-ri-a An-tô-nốp-na đóng vai trò gì trong việc tạo ra tiếng cười trong đoạn trích? Câu 5: Xác định thủ pháp trào phúng được tác giả sử dụng trong đoạn trích và phân tích tác dụng của thủ pháp đó Tình huống hiểu lâm Nghệ thuật phóng đại Nghệ thuật tương phản Ngôn từ tăng cường tính trào phúng Câu 6: Qua việc đọc đoạn trích “Nhân vật quan trọng” và phần tóm tắt hài kịch “Quan thanh tra”, em hãy nêu những đặc sắc về xung đột và kết cấu của vở kịch. Câu 7: Theo bạn, “thói Khơ- lé-xta-côp” bắt nguồn từ đây và cí thể gây ra những hậu quả gì? Nêu suy nghĩ của bạn về nhận định của Gô-gôn: “Ít ai trắnh được uiệc trở niên giống Khơ-lét-xta-cốp, dù chỉ một lần trong đời.” 157 ======= PAGE 159 ======= VĂN BẢN 2 ARPAGÔNG - ÊLY - CLÊAN (Trích “Lão hà tiện”) Mô - Ï - e TRƯỚC KHI ĐỌC 1. Tóm tắt nội dung oở kịch Arpagông không phải chỉ là con người hà tiện trong văn học cổ, chỉ biết khư khư ôm ấp đống vàng. Hắn là một tay tư sản giàu sụ của thời đại, đương tích cực tìm mọi phương kế kiếm cho thật nhiều tiền để tích luỹ, một tên cho vay nặng lãi của thời đại mới, đem đồng tiền sinh lợi, và ham lợi đến quên cả bổn phận làm cha, mất cả tình máu mủ và mất cả tính người, trở nên điên rồ và lố bịch. Hắn sống một cách trưởng giả, như những anh tư sản của thời đại, có xe, có ngựa, có kẻ hầu người hạ, có gia nhân mặc chế phục như ở những nhà đại gia, nào mụ hầu phòng, nào anh đánh xe, nào đầu bếp, nào quản gia, rồi cũng “tung tăng yêu đương”, cũng tiệc tùng khách khứa, cho có thể diện, song tất cả những cái đó chỉ có mẽ ngoài, nhìn vào bên trong thì thấy tất cả tính chất đê tiện xấu xa của con người hà tiện, keo bẩn. Nhân vật Arpagông, với tính cách phức tạp, đã trở thành nhân vật điển hình của người hà tiện, tiêu biểu cho lòng ham vàng của người tư sản tích lũy hình thành ở thời đại đó. Qua nhân vật ấy, Môlie đã mô tả được những nét điển hình của con người tư sản của thời đại, bằng một ngòi bút châm biếm sâu sắc, đả kích cay độc, và một thái độ khinh ghét vô cùng quyết liệt, khiến cho vở kịch của ông có một ý nghĩa xã hội rất lớn và một giá trị đạo đức rất cao. Bên cạnh nhân vật chính ấy, còn có những nhân vật phụ, trong số đó có hai nhân vật mà Môlie đã mô tả với một nét bút khá đậm đà, để hoàn thành bức tranh gia đình Arp- agông, với tất cá ý nghĩa chua chát của nó: đó là Clêan và Êly, hai người con của Arpagông. Hai người đều có một mối tình yêu thắm thiết: Clêan thì yêu cô Marian, mà bố định lấy, đến nỗi thủ tiêu cả tình nghĩa cha con của cả đôi bên; Ely thì yêu Vale, nhưng bị bố ép gả che một ông già (vì ông này có của và không đòi hồi môn), và đã đương đầu với bố già mồm miếng một miếng hai, chẳng ra thể thống gì cả. Chính sự mô tả hiện thực tính cách những người con của Arpagông, đã tập trung hơàn thành bức tranh gia đình tên hà tiện, đã là lờ: ======= PAGE 160 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rở bao nhiêu? tổ cáo đanh thép, đầy đủ và trung thực, vạch tội lòng ham vàng của giai cấp tư sản, nó đã thù tiêu cả mối quan hệ thiêng liêng nhất của con người, và làm cho gia đình tư sản trở niên một gia đình mà đồng tiền đã phá hoại cả đến tình nghĩa cha con, một sự thực mà sau này xã hội tư sản không ngừng xác minh. Do đó vở kịch có một ý vị triết lý đây thấm thía. 2, Câu hỏi gợi mở a. Đọc trước đoạn trích “Arpagong - Êly - Clêan”; tìm hiểu thêm thông tin về tác giả Mô ~ lï - e và vở hài kịch “Lão hà tiện”. b. Em biết gì về một con người có tính hà tiện, những người có tính cách như thế sẽ ảnh hưởng đến cách sống và việc họ đối xử với người xung quanh như thế nào? ĐỌC VĂN BẢN ARPAGÔNG: - Giữ trong nhà một món tiền lớn, quả là một cái tội nợ không vừa; thật là tốt phúc, kẻ nào đặt được tất cả dấn vốn vào chỗ sinh lời chắc chăn, và chỉ giữ lại vừa đủ chỉ tiêu thôi. Khắp nhà trên nhà dưới, nghĩ ra được một chỗ cất giấu có thể tin cậy được, cũng không phải là đễ dàng; vì đối với ta, các loại tủ sắt đều là đáng ngờ, và chả đời nào ta chịu tin cậy vào đó: Ta coi tủ sắt đúng là cái mồi đử trộm và bao giờ cũng là cái đích tấn công đầu tiên (Arpagông tưởng không có ai) - Nhưng món tiền một vạn êquy mà họ mới trả ta hôm qua, ta chôn ở sau vườn, chả biết có gọi là đắc sách được không. Một vạn êquy bằng tiền vàng giữ ở trong nhà là một món tiền khá... (Đến đây, hai anh em xuất hiện, nói thì thầm với nhau) - Trời ơi! không khéo ta đã tự làm hở chuyện mất rồi, không khéo đương cơn nóng tiết ta đã không biết giữ mồm, và hình như khi lầm bẩm một mình, ta đã nói to quá (Nói với Clêan và Êly) - Cái gì đó? CLÊAN: - Thưa cha, không ạ. ARPAGÔNG: - Các con vào đây đã lâu chưa? ÊLY: - Chúng con cũng vừa mới đến thôi ạ. ARPAGÔNG: - Các con có nghe thấy... CLÊAN: - Nghe thấy gì kia, thưa cha? ARPAGÔNG: - Kia, thì... 159 ======= PAGE 161 ======= ÊLY: - Cái gì kia ạ? ARPAGÔNG: - Những lời ta vừa nói ấy mà. CLÊAN: - Thưa, không ạ. ARPAGÔNG: - Có chứ, có chứ? ÊLY: - Xin cha thứ lỗi, không có đâu ạ. ARPAGÔNG: - Ta thấy rõ ràng là các con có nghe thấy lõm bõm gì đó, chả là ta đương lẩm bẩm một mình về chuyện ngày nay kiếm được đồng tiền thật là khó nhọc, và ta bảo rằng kẻ nào có được một vạn êquy trong nhà, thì thật là tốt phúc. CLÊAN: - Lúc đó chúng con do dự chưa dám lại gần cha, sợ cha còn đương dở việc. ARPAGÔNG: - Ta lấy làm hài lòng được nói với các con điều này đó, để các con khỏi - hiểu lầm mà tưởng rằng ta bảo là chính ta có một vạn êquy. CLÊAN: - Chúng con không dám len vào công việc riêng của cha. ARPAGÔNG: - Ước gì ta có được món tiền đó, một vạn êquy. CLÊAN: - Con không tin rằng.... ARPAGÔNG: - Ta mà được món tiền như thế thì còn gì bằng. ÊLY: - Đó là những chuyện... ARPAGÔNG: - Ta cũng đương cần một món tiền bằng ngần ấy. CLÊAN: - Con nghĩ rằng... ARPAGÔNG: - Được như thế thì ta cũng dễ chịu lên nhiều lắm. ÊLY: - Cha thì.... ARPAGÔNG: - Thì ta chả còn phải phàn nàn là thời buổi khốn khổ. CLÊAN: - Lạy Chúa! Cha chăng có gì đáng phải phần nàn, thưa cha, và có ai biết là cha có khối của. ARPAGÔNG: - Thế nào? Tao có khối của! Những đứa nào nói thế là nói láo. Chả có gà sai bằng; đấy là những quân vô lại chúng phao đồn những tin nhằm đó. ÊLY: - Xin cha đừng giận dữ. ARPAGÔNG: - Thật là quái lạ, chính những đứa con rứt ruột của mình lại phản bội 160 ======= PAGE 162 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? mình và trở thành kẻ thù của mình. CLÊAN: - Bảo rằng cha có của, mà là kẻ thù của cha hay sao? ARPAGÔNG: - Chứ gì! Cứ những cái giọng lưỡi như thế và cứ những cách ăn tiêu của chúng mày, thì rồi có ngày sẽ có kẻ đến nhà tao để cắt cổ tao, cho răng tao có vàng ních đầy người. CLÊAN: - Con ăn tiêu cái gì mà gọi là to? ARPAGÔNG: - Cái gì à? Còn có gì chướng mắt hơn là những phục sức xa hoa này mà chúng mày chưng diện khắp phố phường? Hôm qua đây, tao vừa mắng con em mày xong; nhưng mày lại còn tệ hơn. Sự tình thật đáng kêu trời; cứ từ đầu đến chân mày, cũng đủ làm một cái vốn lợi tức khá tươm. Con ạ, tao đã bảo mày có đến mấy mươi lần rồi, tất cả những cung cách của mày, tao chẳng vừa ý tí nào: mày cứ lăn mình vào cái lối sống đại gia công tử; và mày ăn diện như thế kia, thì hẳn là mày phải ăn cắp của tao chứ chẳng không. CLÊAN: - Ủa! làm thế nào mà ăn cắp được của cha? ARPAGÔNG: - Tao biết đâu đấy? Thế mày lấy đâu ra mà ăn mặc như thế này? CLÊAN: - Thưa cha, con ấy à? Con đánh bạc đấy mà: vận con rất đỏ được luôn, và được bao nhiêu là con đắp vào người hết. ARPAGÔNG: - Thế là bậy lắm nhé. Mày gặp vận may được bạc, thì đáng lẽ mày phải biết lợi dụng cái đó, và đem đồng tiền được ấy đặt chỗ tốt lãi, để một ngày kia còn trông thấy nó. Thôi, hãy cứ nói một chuyện này thôi, tao chỉ muốn biết tất cả những dải băng mày thắt nút vào người từ đầu đến chân kia, để làm cái trò gì, và một nửa tá dây giày là không đủ để cuộc thắt quần cộc hay sao? Cần gì phải phí tiền mua tóc giả, khi ta có thể để tóc tự nhiên, chả tốn đồng nào. Tao đám cuộc răng về khoản tóc giả với dải băng chân kia, để làm cái trò gì, và một nửa tá đây giày là không đủ để cuộc thắt quần cộc hay sao? Cần gì phải phí tiền mua tóc giả, khi ta có thể để tóc tự nhiên, chả tốn đồng nào. Tao dám cuộc răng về khoản tóc giả với dải băng, bỏ rẻ cũng là hai chục pixtôn; và hai chục pixtôn sinh lợi mỗi năm là mười tám livrơ sáu xon tám đơniê, là nói chỉ đặt lãi mười hai lấy một tờ đấy thôi. CLÊAN: - Cha nói đúng quả! ARPAGÔNG: - Thôi, ta hãy gác chuyện đó lại và nói chuyện khác (Trông thấy Clêan và Êly ra hiệu với nhau) - Hả? (Nói riêng, nhỏ) - Hình như chúng nó làm hiệu với nhau để ^r+ ======= PAGE 163 ======= xoáy túi bạc của ta đây (Nói to) - Chúng mày làm hiệu cái gì với nhau thể? ÊLY: - Anh em chúng con đương điều đình với nhau xem để ai nói trước. Vì cả hai chúng con đều có chuyện muốn thưa với cha. ARPAGÔNG: - Và cha, cha cũng có chuyện muốn nói với cả hai con. CLÊAN: - Thưa cha, chúng con muốn thưa với cha, về việc hôn nhân. ARPAGÔNG: - Thì cha muốn bàn với các con, cũng về việc hôn nhân. ÊLY: - Ối chao! ARPAGÔNG: - Sao con lại kêu lên như thể? Ấy là cái danh từ hay cái sự việc nó làm cho con sợ, hở con? CLÊAN: - Có thể cả hai đứa chúng con đều sợ chuyện hôn nhân, theo cái kiểu cha có thể nghũ. Và chúng con sợ răng tâm tình chúng con không phù hợp với sự lựa chọn của cha. ARPAGÔNG: - Khoan khoan một tí. Đừng vội lo mà, cha biết thế nào là thích hợp cho cả hai con; và hai con, chả đứa nào sẽ phải phàn nàn gì về tất cả những việc mà ý cha định làm. Và để nói cho có đầu có đũa... (Nói với Clêan) - Con ơi, có một cô thiếu nữ tên Mariar, nhà ở cũng gần đây, con đã thấy mặt bao giờ chưa? CLÊAN: - Thưa cha, có ạ. ARPAGÔNG: (Nói với Êly) - Còn con? ÊLY: - Con có nghe thấy nói. ARPAGÔNG: - Con thấy người con gái đó thế nào, hở con trai của cha? CLÊAN: - Một con người hết sức dễ thương. ARPAGÔNG: - Nét mặt thế nào? CLÊAN: - Rất nền nã, và sắc sảo thông minh. ARPAGÔNG: - Dáng điệu, cử chỉ? CLÊAN: - Tuyệt vời, cố nhiên. ARPAGÔNG: - Con có cho rằng một người con gái như vậy, thật khá xứng đáng để người ta phải quyến luyến không? CLÊAN: - Thật đúng như vậy, thưa cha. 162 ======= PAGE 164 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? ARPAGÔNG: - Răng đó là một đám đáng mong ước? CLÊAN: - Rất đáng mong ước ạ. ARPAGÔNG: - Răng cô ta có đủ mọi vẻ con người là tề gia nội trợ? CLÊAN: - Cố nhiên rồi. ARPAGÔNG: - Và ai làm chồng cô thì sẽ được mãn nguyện về cô? CLÊAN: - Chắc chắn ạ. ARPAGÔNG: - Có một nỗi trắc trở con con: là cha e răng cô ta không có được nhiều của lắm, như người ta đáng có thể đòi hỏi. CLÊAN: - Ô! Thưa cha, tiền của không đáng xét, khi là chuyện kết duyên với một con người nền nã. ARPAGÔNG: - Xin lỗi, xin lỗi (1) ! Nhưng có điều là, tuy không có được nhiều tiền cửa như người ta mong ước, nhưng người ta có thể tìm cách vớt vát lại về những khoản khác. CLÊAN: - Cố nhiên. ARPAGÔNG: - Thế là cha rất hài lòng thấy con đồng ý với cha, vì cái cốt cách nền nã và cái vẻ nhuần nhị của cô ta đã tranh thủ được tâm hồn của cha và cha đã quyết lấy cô ta làm vợ, miễn là cũng có được ít nhiều của cải gì đó. CLÊAN: - Ơ? ARPAGÔNG: - Sao? CLÊAN: - Cha bảo rằng cha đã quyết... ARPAGÔNG:- Lấy cô Marian làm vợ. CLÊAN: - Ai? Cha, cha ấy à? ARPAGÔNG: - Phải, tao, tao, tao, tao! Thế này là nghĩa thế nào? CLÊAN: - Con đột nhiên bị chóng mày chóng mặt, con xin lui khỏi chỗ. ARPAGÔNG: - Không hề gì. Vào mau trong bếp, uống một cốc lớn nước lã đi. Thật là cái bọn công tử yết ớt, chẳng được cứng cáp gì hơn mấy con gà mái! Con gái của cha này, đó là điều cha đã quyết định cho cha. Còn thằng anh của con, cha định lấy cho nó một mụ Bóa mà sáng hôm nay người ta vừa đến nói chuyện với cha. Về phần con, thì cha gả con 163 ======= PAGE 165 ======= cho quý ngài Anxem. ÊLY: - Cho quý ngài Anxem? ARPAGÔNG: - Phải. Một người đứng tuổi, khôn ngoan và hiền đức, chửa ngoài năm mươi, và nghe người ta ca tụng là có rất nhiều của. ÊLY: (Làm lễ chào (1) - Con không muốn lấy chồng, thưa cha, xin cha vui lòng vậy. ARPAGÔNG: (Nhi lại lễ chào) - Còn tôi, thưa cô con gái bé nhỏ của tôi, thưa cô em, tôi muốn cô lấy chồng, xin cô vui lòng vậy. ARPAGÔNG: (Lại làm lễ chào) - Thưa cha, con xin lỗi cha thôi. ARPAGÔNG: (Lại nhại) - Con ơi, cha xin lỗi con nhé. ÊLY: - Con xin kính vái ngài Anxem; nhưng (lại làm lễ chào) xin cha cho phép, con sẽ không lấy ngài đó. ARPAGÔNG: - Tôi xin kính vái cô; nhưng (nhại lễ chào) xin cô cho phép, cô sẽ lấy ngài đó ngay chiều tối nay. ÊLY: - Ngay chiều tối? ARPAGÔNG: - Ngay chiều tối. ÊLY: - Thưa cha, sẽ không có chuyện như thế, ARPAGÔNG: - Thưa con, sẽ có chuyện như thế, ÊLY: - Không. ARPAGÔNG: - Có. ÊLY: - Con bảo không, là không. ARPAGÔNG: - Cha bảo có, là có. ÊLY: - Việc đó, cha sẽ không bắt ép được con ưng thuận. ARPAGÔNG: - Việc đó, cha sẽ bắt ép được con ưng thuận. ÊLY: - Con sẽ tự tử chứ không chịu lấy một người chồng như vậy. ARPAGÔNG: - Cô sẽ không tự tử, và cô sẽ lấy người đó. Nhưng mà, con bé mới to gan chứ! Có đời thuở nhà ai mà con gái ăn nói với bố như thế không? ÊLY: Thế có đời thuở nhà ai mà bố gả chồng cho con gái như thế không? 1641 ======= PAGE 166 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? ARPAGÔNG: - Đám này không có chê vào đầu được, và tao cuộc răng tất cả thiên hạ đều sẽ tán thành sự kén chọn của tao. ÊLY: - Còn con, thì con xin cuộc răng không thể có một người biết điều nào lại tán thành chuyện đó. ARPAGÔNG: (Trông thấy Vale từ đẳng xa) - Kìa, anh Vale kia rồi. Mày có muốn để cho anh ta phân xử việc này giữa tao với mày không? ÊLY: - Con xin đồng ý! ARPAGÔNG: - Nó phân xử thế nào, mày cũng chịu theo chứ? ÊLY: - Vâng anh ta bảo gì con cũng xin nghe. ARPAGÔNG: - Thế thì được lắm. SAU KHI ĐỌC Câu 1: Dựa vào phần tóm tắt hài kịch “Lão hà tiện”, hãy xác định tình huống trào phúng. Câu 2: Đối chiếu với hoàn cảnh thực tế của Arpagông trong phần tóm tắt kịch với lời mà ống nói với hai đứa con gái, hãy lý giải nhân vật này đáng cười ở điểm nào? Câu 3: Hai người con đã có thái độ thế nào trước việc người cha định đoạt việc hôn sự? Câu 4: Nhân vật ÊIly và Clêan đóng vai trò gì trong việc tạo ra tiếng cười trong đoạn trích? Câu 5: Hãy chỉ ra một thủ pháp trào phúng mà em thấy ấn tượng trong đoạn trích trên và phân tích nó. Câu 6: Nhân vật Arpagông tiêu biểu cho kiểu người nào trong xã hội? Hãy phân tích đặc điểm tính cách của nhân vật này. Câu 7: Theo em, đoạn trích trên đã nêu lên và phê phán hiện tượng gì? Điều đó còn có ý nghĩa với cuộc sống hôm nay không? 165 ======= PAGE 167 ======= C. TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH I. Kiến thức chung: Biện pháp nói mỉa, nghịch ngữ 1. Biện pháp nói ma Nói mỉa (biếm dụ) là biện pháp tu từ, theo đó, người nói (người viết dùng những từ ngữ có ý nghĩa tích cực với ngụ ý đánh giá ngược lại, nhằm châm biếm, đả kích đối tượng được nói đến, Đôi khi, nói mỉa cũng được dùng với mục đích bông đùa, trêu chọc trong phạm vỉ giao tiếp thân mật, gần gũi. Như vậy, nói mỉa có cấu tạo gồm hai tầng nghĩa: ý nghĩa bề mặt của từ ngữ (nghĩa tường minh) và ý nghĩa đánh giá của người nói, người viết (nghĩa hàm ẩn). Sự mâu thuẫn giữa hai tầng nghĩa càng lớn thì tác dụng mỉa mai, châm biếm càng mạnh mẽ. Để hiểu được ý nghĩa đánh giá thực của nói mỉa, người nghe (người đọc) cần dựa vào ngữ cảnh, giọng, điệu và các yếu tố phi ngôn ngữ đi kèm lời nói (như nét mặt, cử chỉ). Nói mia biểu thị sự hài hước, dí đỏm, thâm thúy: được sử dụng nhiều trong khẩu ngữ và thơ văn châm biếm, trào phúng. 2. Biện pháp tu từ nghịch ngữ Có sự kết hợp dường như phi lí giữa các từ mang nghĩa đối chọi ngay trong một cạm từ. Người tiếp nhận có thể nhận ra ngay tính chất nghịch ngữ của cụm từ đó mà không phải đối chiếu nó với các cụm từ trong câu. Câu có cụm từ mang tính chất của một phụ chú khác thường đổi với đối tượng được đề cập trước đó. Lưu ý: Ở nhiều tác phẩm văn học, nghịch ngữ có thể hiện diện ngay ở nhan đề hay tên một số chương mục. II. Luyện tập Bài 1: Xác định biện pháp tu từ nói mỉa và phân tích hiệu quả của nó ở từng trường hợp sau đây: 1. Hình như trời đã đặt một cái khuôn riêng để đúc mặt các bà lớn. Nên chẳng mấy chốc bà phủ đã được đúng kiểu. Chỉ riêng bộ mặt đã đủ long trọng. Người ta tưởng chiếc bánh đầy đám cưới, ở giữa đặt một quả chuối ngự, và ở đầu quả chuối, nắm dài hai múi cà chua. ======= PAGE 168 ======= 1ậpP U! - iYg0đ1 Ki rực rỡ bao nhiêu? ã. Bao giờ cho đến tháng ba, Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng. Hàm nằm cho lợn liếm lông, Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi, b. Về đâu uề đâu uề đâu Khi tên sắt nhân được sùng bái Kẻ nhân từ bị bĩu môi Người hành khất bị nghỉ nsờ Gã xảo trí được niềm tín Thánh hiền phải sợ quỷ thần Người thân đè đặt lẫn nhau Như con thiêu thân, họ bất chấp tất cả: Ai nhanh chân chạy trên con đường danh 0ị Đạp lên xác kẻ thù Đạp lên xác trgười ơn Rồi khi hai múi cà chua tách ra để theo nhịp với cặp mắt hịp, đưa quan ông vào chốn natys bàn thì ai cũng phải thấy một cái hố sâu thăm thắm, sâu như bụng đạ một người đàn bà. (Đàn bà là giống yếu) 2. Đến nơi, cô: xổ khăn, lấy lược ra chải mái tóc. Rồi rẽ lệch đường ngôi. Rồi uốn lại mái tóc cho cong xuống, và thò ra mang tai. Rồi cô bôi phấn khắp mặt, tai và gáy. Rồi cô vươn cổ ra để xoa cho đều. Rồi cô rê dài môi ra để thoa son. Rồi cô mặc quần trắng, xếp cho thẳng nếp, đứng ống. Rồi cô vận cái áo sơ mi, cái áo cánh và cái áo dài sặc sỡ, vuốt cho phẳng phíu. Xong đâu đấy, cô lận đôi giày mang cá, ôm cái ví đầm, đến trước gương mà đứng. Bài 2: Xác định biện pháp tu từ nghịch ngữ và phân tích hiệu quả của nó ở từng trường hợp sau đây: (Ca đao) 167 ======= PAGE 169 ======= Sẽ sớm đến ầng hào quang đang uẫu gọi Cứu cánh không sợ sì tội lỗi. (Thứ sáu ngày báu tháng tám năm lẻ chín) L.¿ D. VIẾT NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT (VĂN HỌC, HỘI HỌA, ÂM NHẠC, ĐIỆN ẢNH) I. Tri thức về kiểu bài Tìm hiểu chung về kiểu bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật. 1. Điều kiện để thực hiện dạng bài viết: Cần có những am hiểu về loại hình nghệ thuật của tác phẩm lựa chọn (am hiểu về phạm vi và đối tượng nghị luận). Khi phân tích, đánh giá tác phẩm, cần vận dựng kết hợp kiến thức về các bộ môn nghệ thuật, tham khảo tư liệu (VD: lời khuyên từ các chuyên gia, cố vấn nghệ thuật và các giáo viên mỹ thuật, những người có kinh nghiệm trong các lĩnh vực nghệ thuật). Phải có vốn thuật ngữ nghệ thuật chuyên môn phong phú, để sử dụng phù hợp... 2. Yêu cầu đối với bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật. Phân tích tác phẩm nghệ thuật không có nghĩa là mô tả lại tác phẩm nghệ thuật. Người viết phải có những hiểu biết sâu sắc kết hợp với những cảm nhận, góc nhìn mang tính cá nhân cao; cùng khả năng phân tích, đánh giá và tổng hợp thông tin khi nghiên cứu nghệ thuật. Nêu được những thông tín khái quát về tác phẩm nghệ thuật sẽ bàn tới trong bài viết (tác giả, hoàn cảnh sáng tác, đánh giá của công chúng...). Việc nêu các thông tỉn khái quát về tác phẩm cần dựa vào đặc trưng loại hình của tác phẩm thể hiện. Ví dụ: Với tác phẩm điện ảnh, cần lưu ý các thông tin: tên nhà sản xuất, hãng phim, đạo diễn, tác giả kịch bản, diễn viên, đạo diễn hình ảnh, thiết kế mỹ thuật,.... Ví dụ; Với tác phẩm hội họa cần lưu ý thông tin về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, nội dung/ý tưởng, kích cỡ, hình dạng, màu sắc, kết cấu, ... 168 ======= PAGE 170 ======= 1 V1 ~ 1YUGT K14 rực rở bao nhiêu? Xác định được hệ thống luận điểm, lí lẽ, dẫn chứng sẽ triển khai cho bài viết. Phân tích những đặc sắc của tác phẩm trên cả 2 phương diện: nội dung và hình thức... II. Đọc bài viết tham khảo sau VẺ ĐẸP CỦA BỨC TRANH MONA LISA Tranh Mona Lisa đã 500 tuổi và giờ đây hầu như cả thể giới mặc nhiên coi đó là bức tranh đẹp nhất. Nhưng nếu bỗng có câu hỏi rằng: “Thế nó đẹp ở chỗ nào?” thì chắc gì đã có ai dám đứng ra trả lời đến nơi đến chốn, bởi cái đẹp là tùy mỗi người, nào ai cân- đong-đo-đếm làm gì. Tuy nhiên, trừ những người cùn hoặc cố tình trả lời qua quýt, còn với những thầy dạy môn Lịch sử Mỹ thuật thì đây là chuyện hết sức nghiêm túc và cần có lý giải thỏa đáng. Nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của họa sỹ đại tài người Ý Leonardo đe Vinci (15/04/1452 - 02/05/1519), chúng ta hãy cùng mổ xẻ lý do tại sao bức tranh chân dung với nụ cười huyền bí này lại chính phục được tâm trí của nhiều người đến thế nhé. 1. Giá trị độc bản Nếu tác phẩm Văn chương, Âm nhạc, Sân khấu, Điện ảnh có thể in ra, diễn đi, chiếu lại hàng nghìn, hàng vạn lần mà người xem vẫn thấy hài lòng thì với Hội họa không ai đám khoe đã xem phiên bản của một bức tranh. Tất nhiên văn, nhạc, kịch, phim cũng có bản gốc viết tay của tác giả nhưng nếu không in ra hay không trình điễn hoặc trình chiếu thì chắc chẳng ai xem (trừ gián điệp và tòa án). Chỉ có Hội họa (và phần nào đó của Điêu khắc) là ngành nghệ thuật duy nhất có tiêu chí Độc bản (hoặc Nguyên bản). Mọi tranh chép và in, dù đẹp đến đâu chăng nữa, cũng đều bị coi là hạng nghiệp dư và chỉ dùng để tham khảo vì dấu ấn sáng tạo và thực chất đã không còn! Mặt khác, vẫn theo quy luật tiền-hàng-tiền của tư bản thì ai là chủ sở hữu của bức tranh gốc sẽ giá trị hơn nhiều so với chủ sở hữu của văn bản gốc hay bản nhạc gốc, kịch bản gốc vì tranh gốc chắc chắn là tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, còn văn-nhạc-kịch-phim buộc ======= PAGE 171 ======= phải in-diễn-chiếu mới trở thành tác phẩm hoàn chỉnh, mới có công chúng. Như thế thì bức tranh La Gioconda trong Bảo tàng Louvre là báu vật độc nhất vô nhị. Ai thích thì phải đến tận nơi mà xem tận mắt. Giả sử có bức thứ 2 tương tự thì ai còn trả 4000 đồng tiền vàng hay bảo hiểm 100 triệu USD làm gì nữa? Tiền cực đắt là vì người ta đành cắn răng trả cho báu vật duy nhất ở tầm cỡ thế giới, ở đây có lẽ là bức tranh đẹp nhất. 2. Tranh và nhân vật rất có thần, như muốn tâm tình với khán giả Tiêu chuẩn số một của tranh chân dung là phải giống, bất kể tác giả của nó theo trường phái nào: Hiện thực, Ấn tượng hay Lập thể... Thế mà tự các họa sĩ đều biết - nếu vẽ chân dung thì đa số sẽ vẽ chỉ nhang nhác là cùng vì chưa đủ trình độ chủ động diễn hình; thiểu số khá hơn sẽ vẽ giống ngoài mặt, chỉ rất ít họa sĩ có thể vẽ không những giống mà còn có thần. Đây là từ chuyên môn của giới mỹ thuật, xin các độc giả tạm hiểu điều đó là nhân vật có nội tâm, có thần thái và cá tính. Cụ thể trong bức La Gioconda thì nhân vật ở thế đối diện với khán giả và dù câm lặng vĩnh viễn thì nàng Mona Lisa vẫn luôn có cái nhìn tươi tắn đầy gợi cảm như muốn đối thoại kiểu tâm tình với người xem. Những ai yêu thích thể loại tranh chân dung đều biết có vô vàn cách biểu hiện mặt mũi trong tranh nhưng cái cách mà nàng Lisa dịu đàng, đằm thắm, đầy nữ tính với cái nhìn tinh tế như thấu tận tâm can của mỗi người xem thì cực hiếm trong thể loại này. Đó chính là cái thần ít khi có được. Ngay cả với họa sĩ lớn cũng chỉ khi nào họ thăng hoa mới có thể xuất thần mà vẽ có thần. 3. Dám chơi kiểu rất khó: vẽ phong cảnh làm nền phía sau Đa số các họa sĩ khi vẽ chân dung sẽ chọn nên là bức tường hay phông vải cho đơn giản để tập trung giải quyết mặt (là trọng tâm và khó hơn nhiều). Cái khó là nếu cảnh xấu thì tranh thêm dở mà cảnh đẹp thì sẽ làm mất tập trung vào chân dung. Quả thật, trong suốt chiều dài của Lịch sử Mỹ thuật, rất hiếm họa sĩ cả gan vẽ thêm phong cảnh làm nền cho chân dung mà tranh vẫn thành kiệt tác. Số người thành công kiểu này chỉ đếm trên đầu ngón tay và lại đều xếp sau bậc kỳ tài Leonardo. Sơi vào tranh, ta thấy ông đám liều chơi rất khó: chọn bối cảnh rộng bát ngát với trời mây, núi non, đường mòn, sông suối, cầu cống, cây cỏ... bao la, phức tạp và tỉnh tế. Tất cả đều đậm hoặc sáng vừa phải, lại có sắc màu ngả lạnh để đẩy ra thật xa và nhường ưu tiên cho nhân vật ở phía trước. Tác giả đã phát minh ra kỹ thuật sfumato, nghĩa là làm mờ- dịu- trong trẻo các ranh giới. Chính kỹ thuật này đã khiến ông vẽ được cả những thứ mà phần lớn các họa sĩ không vẽ được: độ dày của bầu không khí mờ ảo man mác mà người 10 ======= PAGE 172 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? xem cảm giác được từ sau lưng nhân vật đến tận núi non đẳng xa. Về điểm này thì một số họa sĩ ta có vẽ cảnh làm nền cho chân dung nhưng hoặc là họ nhằm hiệu quả khác, hoặc họ chỉ đạt hiệu quả như phông nền vẽ giả trong tiệm ảnh để chụp kiểu đánh lừa mắt: cảnh phẳng lừ, bẹp dí, không có thứ tự lớp lang, không có độ dày không khí giữa nhân vật và phong cảnh. 4. Tranh tạo ra được tới 3 ảo giác Dù ta muốn tin hay không thì cũng phải thừa nhận: tranh không hấp dẫn số đông đến vậy nếu không có những yếu tố ma mị mà ở đây là các ảo giác. Nụ cười bí ẩn là ảo giác thứ nhất: Đa số khán giả bị hấp dẫn bởi ảo giác này. Thực ra không có gì gọi là quá cao siêu khi tác giả chọn nụ cười mỉm - là khởi đầu của hành động cười nên ta càng nhìn thì hành động có vẻ như càng tiếp diễn và tất nhiên càng cuốn hút. Đây là phương án lựa chọn tối ưu trong mỹ thuật khi mô tả hành động, có từ thời Hy Lạp cổ đại. Khác với các ngành nghệ thuật khác, mỹ thuật không diễn tả được một quá trình nên nó buộc phải chọn thời điểm. Thoạt tiên người ta chọn cao trào của hành động nhưng đa số thất bại vì quá khó khi nhân vật phải giang tay, vung chân, há mồm hết cỡ, trông rất phản cảm. Tai hại hơn nữa, thời điểm cao trào gây cảm giác sắp kết thúc nên xem càng lâu càng thấy hãng hụt. Vì lẽ đó mà Hy Lạp cổ đại đã làm tượng Lực sĩ ném đĩa ở thời điểm lấy đà tối đa, khiến người xem có cảm giác thấy lò xo nén hết cỡ, chỉ tích tắc nữa là bung ra, chiếc đĩa sẽ vụt bay đi. Cái tài của cụ Vinci là không chỉ vẽ miệng cười mà mắt cũng cười và toàn thân toát lên vẻ tươi tắn. Mặt khác, nụ cười mỉm duyên thầm hơn và hợp với nữ tính hơn. Đôi mắt luôn đõi theo từng khán giá, bất kể họ ở vị trí nào trước mặt là ảo giác thứ hai: Chúng tôi từng chứng kiến khá nhiều người khi vào xem Mona Lisa đã vội vàng chạy sang phải, dạt sang trái, công kênh nhau lên cao rồi nằm mọp sát đất, mắt vẫn không rời tranh. Hóa ra họ muốn kiểm chứng về đôi mắt nhân vật luôn chăm chú nhìn từng khán giả, bất kể họ đứng hay nằm ở đâu, miễn là trước mặt nàng. Kết quả đúng như vậy, với bất kỳ ai. Về cơ bản thì cách làm này không khó: chỉ cần vẽ hai lòng đen chính giữa đôi mắt nhìn thắng thì đều tạo ra áo giác tương tự. Tuy nhiên oái oăm Ở chỗ nhân vật của Leonardo lại đang liếc về một bên, vậy mà nếu ta né sang bên kia thì nàng vấn đõi theo ta không kém phần chăm chú. Có giả thiết cho rằng vì một trong hai mắt của nhân vật đã được đặt đúng vị trí trên đường trục đọc chia đôi tranh. Kể ra cũng khó loại trừ nhưng chẳng mấy thuyết phục. Và đây lại thêm một bí ẩn hấp dẫn nữa của tranh. 171 ======= PAGE 173 ======= Có hai dường chân trời hơi vệnh nhau ở hai bên là ảo giác thứ ba: Khán giả xem tranh sẽ thấy ngay chân trời bên phải, không thăng bằng mà hơi chếch, Chân trời bên trái thì ẩn nhưng bằng kinh nghiệm chuyên môn, các họa sĩ sẽ cảm giác được nó ở vị trí thăng bằng hơn. Thật khó khớp hai đường vì mối nối sẽ bị vênh. Tất nhiên trong nghệ thuật thì 2+2 chưa chắc đã bằng 4, nghĩa là đúng hay sai không phải là điều quan trọng nhất. Mặt khác, danh họa kiêm nhà khoa học như Leonardo chắc không kém đến độ vẽ sai đường chân trời. Chỉ có thể hiểu là ông đã cố tình. Và chính hai đường vênh nhau này lại tạo ra ảo giác khiến phong cảnh có vẻ sống động hơn, thoát được vẻ chết lặng, đồng thời nhân vật cũng có vẻ nhúc nhích đôi chút, đỡ ngay đơ như tượng. Vậy là ảo giác thứ ba giúp tăng phần sinh động cho tranh. Sau 5 thế kỷ, chỉ với bức tranh nhỏ này, vinh quang của tác giả đã lên tới tột đỉnh. Đây là bức tranh đắt giá nhất, được bảo vệ kỹ lưỡng nhất và đông người xem nhất thế giới. Thị phi càng nhiều thì lại càng như thêu dệt thêm cho Mona Lisa trở thành huyền thoại. Tranh góp phần tạo ra nguồn du lịch lớn lao cho nước Pháp và gián tiếp làm ra lợi nhuận không kém gì một nhà máy loại lớn nhất. Về mặt chuyên môn, danh họa Leonardo da Vinci để lại cho hậu thế một số bài học kỹ thuật kỳ điệu như hiệu quả và độ bền 5 thế kỷ của chất sơn tự chế, sự đột phá khi đám tả cảnh thiên nhiên làm nền cho chân dung, quái chiêu tạo ra các ảo giác... và trên hết, các khán giả đến xem tranh mà không biết rằng: ngược lại, chính họ luôn bị nhân vật nhìn như thấu vào tâm can bằng một cái nhìn lúc nào cũng dịu dàng, đằm thắm. (Mỹ thuật MS. 2020. “Vẻ Đẹp Của Bức Tranh Mona Lisa. ”) Đọc văn bản trên và trả lời các câu hỏi sau: Câu 1: Trong văn bản trên, bức tranh Mona Lisa đã được cảm nhận trên những khía cạnh nào? Câu 2: Khi phân tích, đánh giá bức tranh, tác giả có kết hợp kiến thức từ các môn nghệ thuật nào không? Hãy chỉ ra và phân tích. HI. Thực hành viết Các bước chung để thực hiện viết một bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (văn học, hội họa, âm nhạc, điện ảnh). Học sinh có thể tham khảo các bước thực hiện cùng dàn ý chung sau: 172 ======= PAGE 174 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? 1. Chuẩn bị viết « Xác định đề tài và m hiểu về lĩnh vực cũng như tác giả, tác phẩm mà em dự định viết về. «Thu thập thêm thông tin, đọc thêm các bài viết về tác giả, tác phẩm đó để có những kiến thức, hiểu biết nhất định khi viết. 2. Tìm ý, lập dàn ý a. Tìm ý © Tác phẩm nghệ thuật đó của ai? Tên tác giả là gì? s _ Tác phẩm đó hoàn thành trong bối cảnh, thời điểm nào? © Đánh giá của giới chuyên môn và sự đón nhận của công chúng ra sao? ©_ Những đặc sắc, độc đáo trong nội dung và nghệ thuật (có thể đánh giá cả về những thành công và hạn chế). e- Giá trị của tác phẩm nghệ thuật đó trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng. b. Lập đàn ý Lập dàn ý trên cơ sở dựa vào các ý đã tìm được, sắp xếp lại theo một trình tự nhất định, ba phần của bài nghị luận: 1. Mở bài: Nêu được các thông tin cơ bản về đối tượng nghị luận (tên tác phẩm, tác giả, hoàn cảnh sáng tác, sự đón nhận của công chúng...) Ví dụ: * _ Tác phẩm điện ảnh: Cần nêu được tên đạo diễn, nhà sản xuất, tác giả kịch bản, diễn viên... »_ Tác phẩm hội họa: Cần nêu được tên tác giả, hoàn cảnh sáng tác, ý tưởng... 2. Thân bài: Nhìn nhận khái quát về tác phẩm (tóm tắt cốt truyện, phim, nêu chủ đề và ấn tượng ban đầu về tiết tấu, giai điệu, ca từ của ca khúc, diễn tả bằng lời văn về hình tượng đã được thể hiện bằng chất liệu riêng của tác phẩm tạo hình) Phân tích từng khía cạnh nổi bật của tác phẩm với lí lẽ và bằng chứng đầy đủ, rõ ràng. Nêu những điều mà người xem, người nghe cần chuẩn bị để có được sự thưởng thức trọn vẹn, nhiều hứng thú đối với tác phẩm. 173 ======= PAGE 175 ======= 3. Kết bài: Đánh giá chung về tác phẩm (thành công chính và những khiếm khuyết theo quan điểm nhìn nhận của người viết). 3, Viết s- Dựa vào dàn ý đã xây dựng để luyện tập kĩ năng viết. «_ Bố cục: 3 phần (MB - TB - KB). © Cách triển khai: s_ Triển khai từng luận điểm (Mỗi ý chính trong bài) cần được triển khai thành một đoạn văn; từng đoạn văn đều có câu chủ đề, được đặt ở vị trí thích hợp. Các luận điểm trong phần thân bài phải làm rõ cho vấn đề nêu ở đề bài. © _ Căn cứ vào loại hình nghệ thuật lựa chọn (đối tượng nghị luận) để lựa chọn dẫn chứng phù hợp. + - Các dẫn chứng phải đúng, tiêu biểu và phong phú, kèm theo những lời bình, phân tích phù hợp, tránh tình trạng nói chung chung thiếu căn cứ. 4. Chỉnh sửa, hoàn thiện. ©- Đọc lại bài viết, đối chiếu với yêu cầu của kiểu bài và dàn ý đã lập để đảm bảo không bỏ sót ý. ® Thay thế những từ ngữ có thể tạo nên giọng điệu thuyết phục không thích hợp, chẳng hạn những từ ngữ toát lên sắc thái mệnh lệnh, quyết đoán: không được, cần phải, ... Bỏ những ý, những câu để tạo ra phản ứng ngược từ phía người được thuyết phục. s Bổ sung những ý, những câu phân tích, đánh giá về đối tượng chưa thuyết phục, còn thiếu. © Chỉnh lại những điểm thiếu nhất quán và chưa phù hợp trong cách triển khai ý, cách lập luận. © - Rà soát để đảm bảo không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu và tô chức văn bản. Lưu ý: Tùy yêu cầu cụ thể, bạn có thể có sự sáng tạo trong hình thức và nội dung để bài viết của mình hấp dẫn hơn. Trong khuôn khổ của các đề bài luyện tập để đi thị, ta cần tôn trọng sự chuẩn mực của một bài tập làm văn truyền thống để phù hợp đề bài, tối ru chất lượng và điểm số. Nhưng nếu bạn viết báo, viết bài luận để chia sẻ cảm nhận của bản thân, viết để bộc bạch suy nghĩ với người đọc của mình trên các trang mạng xã hội, bạn có thể linh hoạt phát triển từ cấu trúc truyền thống đã được học. Sau đây là một ví dụ về một bài viết của cô Sương Mai về phim “Spider Man 2” phát triển từ cấu trúc chung ta đã học. 174 ======= PAGE 176 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? IV. Đọc tham khảo bài viết s_ Tác phẩm: “Spider Man 2” (Người Nhện 2) ¬ 2004 © Đạo diễn: Sam Raimi © Diễn viên chính: Tobey Maguire, James Franco, Alfed Molina, Kristen Dunst, j.K. Simmong, ... “§PIDER MAN 2“ VÀ HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM BẢN THÂN Trong cuộc đời, hẳn sẽ có nhiều nơi bạn muốn đặt chân đến để mở rộng tầm nhìn, khám phá thế gian rộng lớn ngoài kia. Thế nhưng, cuộc hành trình dài nhất, bền bỉ nhất dường như lại không phải là những chuyến đi xa - mà là chuyến đi vào chiều sâu bên trong chính con người bạn, cuộc hành trình mang tên “tôi đi tìm tôi”. Đó cũng là cuộc phiêu lưu đầy ý nghĩa mà bản thân tôi chiêm nghiệm được sau khi xem lại tác phẩm “Người nhện 2” sau nhiều năm, ở thời điểm bản thân đã đi qua nhiều thăng trầm trên chặng đường trưởng thành. Tôi nhận ra việc thưởng thức lại một tác phẩm của thời thơ ấu cũng là một cách ta nhận ra mình đã lớn lên thế nào trong suốt những tháng năm qua, khi soi chiếu chính lăng kính của mình trước đây và bây giờ. Bộ phim vẫn vậy, nhưng tâm thế thưởng thức của ta đã không còn như cũ. Tôi của năm 10 tuổi, của năm 15 tuổi, của năm 20 tuổi, và đương nhiên - của năm 25, thời điểm tôi viết bài chia sẻ này; đã thay đổi nhiều biết bao. Tác phẩm không chỉ là một bộ phim giải trí về siêu anh hùng giải cứu thế giới, mà còn đem tới cho tôi những sự “vỡ lẽ” về chuyến đi dài nhất vào chiều sâu tâm hồn: “Đi kiếm mình nơi thế gian rộng lớn”. " 1. Hành trình bền bỉ mang tên “tôi đi tìm tôi” Triết gia vĩ đại Plato từng nói: Con người là một sinh vật luôn đi tìm ý nghĩa. Chỉ có con người mới luôn tự vấn “Sống để làm gì?”, “Học để làm gì?”, “Làm để làm gì?”, “Ý nghĩa của đời ta nằm ở nơi đâu?”... Quả thực, chúng ta luôn sống giữa rất nhiều những câu hỏi, những băn khoăn trăn trở để tìm kiếm ý nghĩa cho sự tồn tại của chính mình. Chắc hẳn hơn một lần ta từng tự hỏi: Tồi là ai? Vì sao tôi lại tồn tại? Tôi muốn trở thành một người nhự thếnào? Đâu là đích đến mà tôi khao khát? Những câu hỏi ấy sẽ thúc đẩy ta tìm kiếm một câu trả lời dành riêng cho mình, để từ đó ta khám phá bản thân và có được những giá trị mà mình hẳng tìm kiếm. Peter Parker không phải ngoại lệ. Cậu cũng loay hoay, chật vật giữa muôn vàn những câu hỏi, để rồi hoang mang vì không biết mình muốn gì, cần làm gì. Cậu không đủ điều kiện để tự chế tạo những máy móc, vũ khí phục vụ công việc siêu anh hùng - cũng không 175 ======= PAGE 177 ======= có sự hậu thuẫn từ một người thân giàu có. Peter chỉ có một mình, không dám nói với ai sự thật, cố gắng che giấu thân phận cả với những người gần mình nhất. Đó là lý do sứ mệnh trở thành Người Nhện đôi lúc còn khiến Peter càng thêm áp lực. Vì bạn biết mà, cảm giác không được thành thật về bản thân, không được sống là mình, thật bất lực biết bao. Và rõ ràng, cậu chỉ có thể trở thành anh hùng thực sự khi bản thân cậu trả lời được câu hỏi: Tôi là ai giữa cuộc đời này? Peter Parker hiện lên là một người bình thường mau mắn sở hữu siêu năng lực, chứ không phải một siêu anh hùng dưới lớp uỏ bọc của người bình thường. Siêu năng lực tình cờ này chẳng những không giúp giải quyết các vấn đề đời thường khác của Peter, mà thậm chí còn làm xáo trộn nhịp sống của cậu sinh viên trẻ. Peter thông minh, có tố chất, nhưng lại bị giáo sư nhận xét là khá lười biếng do cậu không đủ thời gian để làm tốt mọi thứ. Cậu phải đi giao pizza và chụp ảnh dạo để kiếm sống vì chẳng đủ tiền trả phòng trọ nghèo nàn ở New York phồn hoa. Cậu tủi thân và thương đì mình mà chẳng thể làm gì khác- khi bà sắp phải bán nhà mà vẫn cố dúi cho cậu 20U5D vào địp sinh nhật. Cậu không đủ tự tin để đối điện với người mình yêu, và cũng chưa đủ dũng cảm để nói với đì May hay người bạn thân Harry về những bí mật cậu vẫn luôn giấu kín, Peter đối điện với những vấn đề mà bất cứ người trẻ nào trong số chúng ta cũng đã, đang hoặc sẽ gặp phải trong đời. Học hành, gia đình, công việc, bạn bè, tình yêu - chẳng phải chính chúng ta cũng đang xoay như chong chóng giữa tất cả những mối quan hệ và những sự lựa chọn vô cùng phức tạp ấy? Chẳng phải chính chúng ta cũng có lúc băn khoăn ngập ngừng - khi nhận ra rằng mình không thể nào ôm đồm mọi trách nhiệm, nhưng cũng không đủ dũng cảm để đưa ra một sự ưu tiên nào đó? Vì thế, tôi tin rằng, “Spider Man 2“ không chỉ muốn kể câu chuyện về một người anh hùng, mà còn muốn khắc hoạ cho chúng ta chân dung của một người trẻ đang lăn lộn trên hành trình tìm kiếm giá trị của chính bản thân mình. Đây thực sự là một tác phẩm dành cho tất cả chúng ta - vì dù không phải một siêu anh hùng hay một kẻ nổi bật ngoài đời, bạn cũng sẽ bắt gặp bản thân trong phim theo một cách nào đó. 2. Sẽ có rất nhiều người muốn thay bạn đưa ra câu trả lời Hành trình khám phá bản thân sẽ có phần trắc trở, không chỉ vì tìm hiểu chính mình là một điều khó khăn, mà còn bởi xung quanh bạn sẽ có vô vàn ý kiến khác biệt, và rất nhiều người muốn thay bạn đưa ra câu trả lời. Bố mẹ, thầy cô, bạn bè, người yêu, ... bạn đã bao giờ thấy quá áp lực và mỏi mệt khi họ liên tiếp đưa ra những lời khuyên, thậm chỉ áp đặt bạn phải làm điều này - nên trở thành người kia; mà chưa cho bạn đủ thời gian, cơ hội để 176 ======= PAGE 178 ======= cạp vự — ivxkƯớt niệ PHC fØ D0 HHIÊú¿ bạn tự suy ngẫm và có được đáp án của riêng mình? Bạn có bao giờ uể oải bởi càng yêu thương, họ lại càng đem đến cho bạn nhiều áp lực vô hình mà bạn không biết phải giải quyết ra sao? Peter cũng loay hoay giữa nhiều sự lựa chọn và nhiêu luông ý kiến từ những người luôn yêu thương cậu, muốn tốt cho cậu như thế. Đôi khi, những lời nói nhỏ lại vô tình tạo rên những áp lực lớn... Bác Ben khuyên Peter: Hãy giúp đỡ những người xung quanh, hãy có trách nhiệm uới món quà mình được trao tặng. Các giáo sư ở trường muốn Peter tập trung học tập, để phát huy khả năng của bản thân. Jonah Jameson muốn Peter chụp người nhện, vì đó là thứ duy nhất ông ta muốn mua ở cậu. Người bạn thân Harry liên tục gây áp lực với Peter vì cho rằng cậu có mối liên hệ kì lạ với kẻ đã hại chết bố mình. Mary Jane thì thúc giục Peter một câu trả lời, một hành động dứt khoát cho tình yêu vẫn còn e ấp, ngượng ngùng, cho mối quan hệ dở đang giữa hai người. Chưa kể, chủ phòng trọ thì luôn áp lực đòi tiền nhà mọi lúc. Khi đứng giữa quá nhiều áp lực và nhiều sự lựa chọn, khi ta mãi không đưa ra một quyết định rõ ràng, người ta hay có 3 xu hướng: một là khoanh bừa một đáp án mà không cần biết nó dẫn mình tới đâu; hai là không làm gì; và ba là cố gắng ôm đồm tất cả. Peter ờ trường hợp thứ 3. Cậu muốn chiều lòng tất cả mọi người, một phần vì chính cậu cũng không biết bản thân muốn gì để lựa chọn. Sau khi nhận ra không thể làm mọi thứ, Peter quyết định quay về phương án 1, chọn làm một người bình thường, phủ nhận năng lực trời phú, tập trung cho học tập và chăm chút cho mối quan hệ mình đã từng bỏ lỡ. Cậu đã có được những giây phút hạnh phúc trong phút chốc, khi có được lời khen trong lớp học, và có hy vọng giành lại MJ. Nhưng điều quan trọng là, Peter không thực sự hài lòng với sự lựa chọn đó. Kể cả khi vứt bỏ trang phục của Người Nhện, loay hoay giữa những hoài nghi về bản thân, bản năng bên trong Peter vẫn khiến cậu là một người hùng. Cảnh Peter lao mình vào đám cháy để cứu người đã cho chúng ta, và cho chính Peter hiểu được điều đó. Nỗi lo lắng khi nhìn thấy lửa bùng lên trong toà nhà, một điều gì thúc iục cậu cần phải cứu đứa nhỏ bằng mọi giá, những hành động dứt khoát đến mức quên đi cả sự an toàn của bản thân... Tỉnh thần ấy đâu phải do bộ quần áo - hay do siêu năng lực mang đến cho Peter Parker? 177 ======= PAGE 179 ======= Khoảnh khắc đó, Peter nhận ra, cậu hạnh phúc vì được giúp đỡ mọi người, và cậu khao khát được làm điều đó. Không phải vì tình cờ được trao năng lực mà Peter phải làm anh hùng. Không phải vì lời nói của bác Ben mà Peter lựa chọn trở thành một anh hùng. Cũng không phải vì mọi đứa trẻ đều cần một người hùng làm điểm tựa tinh thần nên Peter không có phương án khác. Cậu trở thành Spider Man, là đo chính cậu lựa chọn, do tự cậu quyết định! Đó là cách Peter định nghĩa bản thân, và là đáp án cho câu hỏi mà cậu vẫn luôn trăn trở. Kể từ ấy, những hoài nghỉ mới đần tan biến, và Peter Parker cùng Spider Man không còn là hai nhân dạng - không còn là 2 cuộc đời, mà thực sự hoà vào làm một. 3. Mọi câu trả lời đều có bên trong bạn Bàn về sức mạnh của tiềm thức, triết gia người Mỹ Ralph Waldo Emerson đã đúc kết đơn giản thế này: Bạn chính là những gì bạn nghĩ. Chính tự tưởng và niềm tin bên trong sẽ dẫn bạn đi đúng hướng. Kể cả khi tất cả mọi người xung quanh tung hô bạn, hoặc nói với bạn rằng bạn rất hợp làm này làm kia - nhưng tự bạn không nghĩ thế, thì sự lựa chọn đó vẫn không dành cho bạn, con người đó vẫn không phải là con người bạn đang kiếm tìm. Ngược lại, đôi khi bạn làm khác những lời khuyên từ xung quanh, bạn quyết định không giống với số đông - thậm chí đi ngược xu hướng của xã hội, nhưng đó là những gì khiến bạn thấy hạnh phúc, đó là những hình dung của bạn về bản thân mình; thì bạn vẫn thành công trong hành trình tôi đi tìm tôi đầy thử thách. Và khi bạn đã có được câu trả lời, những điều bạn làm sẽ càng thêm giá trị. Chắc hẳn, tất cả chúng ta đều không thể quên được cảnh Spider Man cứu đoàn tàu. Cảnh này trở nên huyền thoại không phải bởi vì Người Nhện đã cứu được biết bao sinh mạng, không phải vì người anh hùng đã toả sáng rực rỡ như hình dung của hàng triệu người dân về anh ấy, không phải-vì Người Nhện rất thông minh hay có sức khoẻ phi thường. Sự xúc động nằm ở chỉ tiết, người dân đã nhận ra rằng, Spider Man cũng là một người bình thường, thậm chí chỉ là một cậu trai trẻ. Họ nâng niu Peter Parker trên tay, họ xúc động khi cậu đã che đi thân phận thật để âm thầm giúp đỡ cả thành phố. Lần đầu tiên, ta thấy, họ biết ơn Peter Parker chứ không phải chỉ là bày tỏ sự ngưỡng mộ với Người Nhện. Sự nâng niu đầy trân trọng ấy khiến cho chính người xem như chúng ta cũng dấy lên một niềm tin, rằng, khi bạn đã biết mình là ai, khi bạn nỗ lực hết sức cho hành trình mà bạn lựa chọn - nhất định bạn sẽ được công nhận bằng một cách nào đó. Trước giờ, chúng ta luôn cho rằng anh hùng là phải phi thường, anh hùng là phải làm 178 ======= PAGE 180 ======= có ®Ó SỔ M'H rực rở 0qQo nhiêu? những việc cao cả, mà đôi khi ta quên mất, họ rất có thể cũng chỉ là những người bình thường, có cuộc sống riêng, có câu chuyện riêng. Có lẽ, sức hấp dẫn của chính là đã tái hiện quá chân thực tính chất bình thường ấy, trong hình dung của ta về những người hùng. “5pider Man 2” những điều vốn còn khuất lấp Feter Parker không thể trở thành Người Nhện nếu cậu không tự mình nhận ra rằng mình muốn làm điều đó. Cậu không thể nào tự khám phá chính mình nếu không đào sâu vào thể giới nội tâm phức tạp bên trong và hiểu được mình đang cần gì, muốn gì. Cậu cũng không thể có được một sự lựa chọn hoàn mỹ, vì khi sống là mình, vì khi đưa ra một đáp án, ta sẽ cần những sự đánh đổi. Thậm chí, ta sẽ phải từ bỏ cả những điều ta đã từng rất quý trọng, để bước tiếp trên hành trình phía trước. Cũng chính bởi vậy, ta càng không thể trông chờ đáp án từ bên ngoài, ta không thể phụ thuộc vào yếu tố ngoại cảnh để khắc phục vấn đề của nội tâm. Mọi câu trả lời đều có bên trong bạn - chỉ là bạn có đủ quyết tâm để tìm ra chúng hay không mà thôi. E. LUYỆN TẬP I. Đọc văn bản, trả lời câu hỏi PHONG BÌ Hồng Khả Nhân Nhân vật; Nhà bác sĩ Kim Bắc sĩ Kim Vợ bác sị Kim Em bự gái, Màn mụ, Bà Kim ra. Bà Kim; Ông Kim, ông Kim đâu rồi! | (ác g Kim Ta) B ¬ `. ì thế? Š Kim: Ở bà dạ vẽ đấy à. Bà đi chợ mua đồ ăn gì thế ( h _ ======= PAGE 181 ======= Bà Kim: Rau muống. BS Kim: Lại rau muống! Bà không chịu thay đổi món ăn gì cải Bà Kim: Thay đổi chứ. Hôm qua rau muống luộc, hôm nay rau muống xào... BS Kim: Nhà mình quanh năm ăn rau muống. Sao bà không mua thịt, mua cá? Bà Kim: Lương ông như thế mà đòi ăn thịt, ăn cá? Thôi, cứ món rau muống mà xài tới chết. BS Kim: Xài tới chết? Bà Kim: Chứ sao. BS Kim: Thôi được, ăn rau muống cũng không sao, đỡ béo, hạ huyết áp, bớt cô-lét-tơ- rôn... Vợ chồng mình cũng sắp đến tuổi 50 rồi, bà thấy đấy, ai cũng khen vợ chồng mình thon thả. Bà Kim: Còn xinh đẹp nữa chứ! Ở cái nhà tập thể này, ai người ta cũng có Tivi màu, máy điều hòa không khí, chỉ có mỗi nhà mình là vẫn cái Tivi đen trắng cổ lỗ sĩ... BS Kim: Mười hai giờ rồi đấy! Bà đừng có nôn nóng, ở đời có người giàu trước, cũng phải có người giàu sau chứ. Bà Kim: Thế thì bắt đầu từ ngày mai, đến lượt ông đi chợ. BS Kim: Sao vậy? Bà Kim: Để ông biết thế nào là xấu hổ. BS Kim: Có thể thật, cùng là dân mặc áo bờ-lu trắng, làm sao mà họ giàu nhanh thế nhỉ? Bà Kim: Ông không hiểu thật hay giả đò không hiểu đấy? BS Kim: Tôi giả đò... Tôi biết chứ, họ chuyên môn nhận phong bì, còn tôi thì không thể nhận như thế được. Bà Kim: Không nhận, thế thì xin ông cứ xơi rau muống dài đài nhé. “Hết ngày dài lại đến đêm thâu”... có chịu nổi không? BS Kim: Chịu sao nổi! Cứ rau muống luộc với rau muống xào có mà tài thánh cùng không nuốt mãi được. Được, bắt đầu từ hôm-nay, tôi sẽ nhận phong bì. Bà Kim: Thật chứ? ======= PAGE 182 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? g6 Kim: Nhận chứ sao! Cứ một người đến chữa bệnh là nhận một phong bị, nhiêu cải thiện đời sống bấy nhiêu. nhận bao Bà Kim: Thế mới phải chứ! Tôi sẽ giúp ông, sẽ hướng dẫn ông cách nhận phong bì BS Kim: Thể thì tôi phải chia tiền cho bà mất, ha ha... (Bé gái ra) Bé gái: (rụt rè) Trong nhà có ai không ạ? Bà Kim: Chết thật, tôi quên không đóng cửa, để ăn mày xộc vào nhà. Không có ai, không có ai đâu. (Định đóng cửa) Bé gái: Cháu muốn gấp bác sĩ Kim ạ. Bà Kim: Tìm bác sĩ Kìm làm gì kia? Bé gái: (nhìn trước, nhìn sau thấy không có người) Cháu đến gửi phong bì cho bác sĩ Km ạ, Bà Kim; (vui vẻ) Phong bì! Ơ, cháu vào đây, vào đây! Có việc rồi đây. Mời cháu ngồi, Ngồi uống nước, Đề gái: Cháu không uống ạ. Bà Kim: Hút thuốc, Bề gái, Cháu không biết hút ạ. 'SKimp, lầm cái gì thế? Bà Kị !m: Cải thiện đời sống! Cháu tìm bác sĩ Kim có việc gì nào? \ Bề gú, SE Mẹ cháu bị bệnh, phải mổ ạ. L * Kim mm: Tốt m@ tốt lắm, cần phải mổ. Bác sĩ Kim đây này. h ` à_ Chào bác sĩ a, (Cúi rạp mình chào) NÓ, CN đúng táng) - (Với vợ) Cháu nó bé quá. ¬ tr Dị may không thể bỏ lỡ, thời cơ không dễ tới đâu. Cứ việc mà thịt, mau: Vội 1ì, ? để tôi hỏi cho rõ đã nào. Em gái, mẹ cháu nằm giường số mấy Ệ Bái; 'Siường go 181 ======= PAGE 183 ======= Bà Kim: Số đẹp quá - trúng ta rồi. BS Kim: (cẩn thận) Cháu đến đây có ai nhìn thấy không? Bé gái: Không ạ. Cháu biết là làm việc này không được để cho ai biết. Bà Kim: Ơ, con bé này thông minh đáo để. BS Kim: Thông minh quá cũng sợ, mồm mép lại nói lung tung... Bé gái: (vội thanh minh) Bác yên tâm, cháu không nói lung tung đâu ạ. Xưa nay cháu vẫn thật thà, một nói một, hai nói hai ạ... BS Kim: Tốt lắm, sau này, ra đời cháu cứ một nói một, hai nói hai sẻ... Bé gái: Cháu không nói gì đâu ạ. Thật đấy, cháu đến đây mẹ cháu cũng còn không biết nữa kìa. của ông làm (ra hiệu “cứa cổ 182 Bà Kim: Giỏi lắm, cháu thương mẹ cháu lắm hả. Bé gái: Vâng ạ. Bà Kim: Mai kia mẹ cháu khỏi bệnh, cháu có hối tiếc vì phải chủ quá nhiều tiền không? Bé gái: Không đầu ạ. Bà Kim: (Với chống) Được, tôi đã tiêm xong thuốc chống xốc rồi, bây giờ đến công việc lâu _v bằng tay). BS Kim: (do dự)... Cái này... Bà Kim: Cải thiện đời sống mà... BS Kim: Ơ, phải. Này, cháu bé, việc này, việc này, cái kia, cái kia... Cháu có hiểu không? Bé gái: Cháu không hiểu ạ. BS Kim: Nó không hiểu bà ạ. Bà Kim: Ông cứ nói thẳng ra là xong. BS Kim: Tôi không thấy hứng thủ. Bà Kim: Ăn rau muống thì có hứng thú hả? BS Kim: Đúng, cứ ngũ đến rau muống là lại buồn nôn! Này, cháu bé, ăn mãi rau ======= PAGE 184 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? . sðng ngắn lắm cháu ạ. Ơ kìa, sao mình lại nói với cháu nó thế nhỉ? Bà Kim: Ông rõ vớ vẩn! BS Kim: Bình tĩnh, để làm tốt công tác chuẩn bị cái đã. Cháu bé, cháu ngồi xuống đây. Cháu đến tìm chú để đưa cái này hả? (chỉ phong bì trên tay bé gái). Bé gái: Vâng ạ. BS Kim: (thăm đò) Cháu có biết thế nào là chống tham ô hối lộ không? Bé gái: Không ạ. BS Kim: (yên tâm) Cháu có biết thế nào là đạo đức nghề nghiệp không? Bé gái: Không ạ. BS Kim: (thích chí nháy mắt cho vợ) Cháu có biết làm như thế này là không tốt không? Bé gái: Biết ạ! BS Kim: Cháu biết làm như thế này là không tốt? Bà Kim: Vớ vấn, hỏi gì mà lạ vậy. BS Kim: Không hỏi kỹ, nhỡ xảy ra chuyện gì thì đời tôi toi à? Bà Kim: Thôi đi, thôi đi, cái ngữ ông chỉ đáng ăn rau muống thôi! Cháu bé, cháu về đi, về đi! BS Kim: Tôi nói thế là để ăn chắc, để nó tự nguyện, tự giác, sau này không thể nói đi nói lại... Bà Kim Thôi được, chuẩn bị xong rồi thì ông làm việc đi chứ BS Kim: Được! (Làm động tác chuẩn bị mổ) Bà giúp tôi gây mê... Ờ, không, bà giúp tôi giữ vững tỉnh thần nhé. Cháu bé này, cháu biết làm như thế là không tốt, sao cháu lại mang phong bì đến đây? Bé gái: Dạ, nếu không có phong bì, bệnh mẹ cháu sẽ không khỏi được. BS Kim: (cố ý) Sai rồi, sai rồi! Cháu cần phải tin rằng phần đông các bác sĩ đều tốt cả. Bác sĩ Kim sẽ không bao giờ nhận phong bì của cháu đâu. Bé gái: Không! Chú phải nhận cho cháu. BS Kim: Chú không thể nhận. 183 ======= PAGE 185 ======= Bé gái: Chú phải nhận. BS Kim: Không thể nhận. Bé gái: Chú phải nhận cho cháu. BS Kim: (hỏi vợ) Tỉnh thần đã đủ chưa? Bà Kim: Đủ rồi. BS Kim: Thế thì tôi nhận... Bà Kim: (chợt nhớ ra điều gì) Thong thả đã. Còn có một chuyện quan trọng chưa hỏi. Nếu bố nó làm ở Viện kiểm sát thì sao? BS Kim: (giật mình sợ hãi) Bố nó làm ở Viện kiểm sát à? Bà Kim: Tôi đã hỏi nó đâu. Cháu bé này, bố cháu làm ở cơ quan nào? Bé gái: Bố cháu không ở cơ quan nào cá ạ. BS Kim: (như trút được gánh nặng) Hộ cá thể† Bà Kim: Hộ cá thể thì tốt lắm! Bố cháu buôn bán gĩ? Bé gái: Trước đây bán quần áo, bán đồ chơi, bán cả đồ điện nữa ạ. Bà Kim: Nhà giàu rồi, loại này đại gì mà không “chém”! BS Kim: Đúng! Thế bây giờ bố cháu bán gì? Bé gái: Bây giờ không bán nữa ạ. BS Kim: Làm ông chủ rồi hả? Bé gái: Bố cháu mất rồi... BS Kim: (ngã ngửa người ra) Sao tim mình lại như ngừng đập thế này nhỉ? Bà Kim: Dào ôi... Nhà ai chẳng có chuyện không may như vậy. Ai cũng cứ đễ xúc động như ông thì có mà... ăn cám. BS Kim: Ờ, không được mềm yếu thế, nào, bà củng cố tình thần thêm cho tôi di. (Với bé gái) Cháu bé này, vừa rồi chú đã bàn kỹ với cô ấy rồi, cô chú thấy không thể nhận phong bì của cháu. Cháu về đi. Bé gái: Chú ơi, sao chú lại không nhận? 184 ======= PAGE 186 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? BS Kim: Chú thấy ngượng lắm. Bé gái: Chú ơi, chú đừng ngượng, chú cứ nhận đi. BS Kim: Không nhận được, cháu có chuyện khó khăn đến nhờ chú giúp đỡ, sao chú có thể nhận phong bì của cháu được? Cháu về đi, về đi. Bé gái: (quỳ sụp xuống) Chú ơi, chủ nhận đi, cháu lạy chú. BS Kim: Đứng dậy đi, đứng dậy ngay. Bé gái: Chú không nhận, cháu không đứng dậy đâu. BS Kim: Cháu bé này học ở đâu ra cái trò này thế nhỉ? Chú hỏi cháu, cháu đã đưa phong bì cho chú, lại còn quỳ lạy chú, tại sao vậy? Bé gái: Tại vì... người ta bảo vì trước đây bố cháu không đưa phong bì cho bác sĩ cho nên bệnh của bố cháu mới không khỏi. (Càng nói càng nghẹn ngào) Chú ơi, chủ nhận cho cháu đi, cháu đã mất bố rồi, cháu không thể mất nốt mẹ cháu. Chú cứu mẹ cháu với (Khóc thất thanh) Mẹ ơi, mẹ... BS Kim: (Xúc động mạnh) Trời... Bà Kim: Tỉnh thần căng thắng quá rồi. Thôi được, cháu bé đừng khóc nữa, chú đã nhận tồi (đỡ bé gái dậy, câm phong bì) BS Kim: Không, không được nhận. Bà Kim: Sao? Tỉnh thần đã đủ rồi mài BS Kim: Đủ cũng không được nhận. Bà Kim: Cứ nhận. BS Kim: Không được nhận. (Hai vợ chồng giằng co, phong bì rơi xuống đất, văng ra toàn tiền giấy một trăm, hai tầm) Cả hai: Hả? (Âm nhạc) Bà Kim: Toàn tiền trăm... Bé gái: Cháu xin lỗi, cháu không kịp đổi tiền lớn. (Quỳ xuống nhặt, rồi bằng hai tay 185 ======= PAGE 187 ======= đưa cho Bác sĩ Kim lúc này đang đứng chết lặng) Tiền không đủ phải không ạ? (Rút trone túi ra một tờ giấy 10 nghìn còn mới nguyên) Cháu còn tờ một vạn mới nguyên, tiền mừng tuổi cuối cùng của bố cháu cho cháu... Cháu hết cả rồi, hết thật mà. (lộn ngược hết túi & ra) Chú ơi, nếu thiếu tiền, cháu sẽ xin trả chú sau, thật ạ, cháu sẽ viết giấy cam đoan, cháu nhất định sẽ trả cho chú... (khóc nức nở). (Âm nhạc rộ lên rồi lắng xuống) BS Kim: Cháu trả chú? Cháu biến thành con nợ của chú từ bao giờ vậy? Cả hai vợ chồng: (từ từ tiến đến gần, ôm chặt lấy cháu bé) Chấu ngoan quá... Chú sẽ mỡ ngay cho mẹ cháu... (Âm nhạc lại vang lên mạnh mẽ. Ánh sáng rực rỡ tràn đầy sân khẩu) Trả lời các câu hỏi sau: Câu 1: Vở kich trên đã lấy cảm kh nhu - âu 1: Vở kịch trên đã lấy cảm hứng từ vấn đề g1 trong cuộc sống? Đây là vấn đề tốt hay xâu và nó có tác động như thế nào trong xã hội? Câu 2: Hãy nhận xét cách xâ ân vâ l u Py nhận xét cách xây dựng nhân vật vợ bác sĩ Kim trong vở kịch trên. Nhân vật này đóng vai trò gì trong việc tạo dựng tiếng cười? Câu 3: Hãy nê ài à An 1a; äy nêu ra bài học mà em nhận lại từ vở kịch trên bằng đoạn văn từ 10 - 12 câu. 186 ======= PAGE 188 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? II. Đọc, nghe, xem: Nâng cao cảm thụ 1. Vở kịch “Bệnh sĩ“ - Lưu Quang Vũ ¡ MP 4 Cảnh trong oở kịch “Bệnh sĩ” của tác giá Lưu Quang Vũ được lập thể điền uiên Nhà hát Kịch Việt Nam thể hiện trên sân khẩu. Lưu Quang Vũ là hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế ki XX, và cũng là nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Nhiều vở kịch của ông đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự và vẫn được công chúng nồng nhiệt đón nhận. Tuy chỉ dừng lại ở 40 tuổi đời nhưng Lưu Quang Vũ đã kịp để lại một khối lượng đồ sộ với vô vàn các tác phẩm có giá trị, sống mãi với thời gian Năm 1988, Lưu Quang Vũ khép lại cuộc đời 40 năm đầy thăng trầm biến động của mình khi vừa kịp hoàn thành vở kịch “Bệnh sĩ”. Ngay từ lần đầu tiên được dàn dựng trên sân khấu, vở kịch đã trở thành một hiện tượng khi nó đã chạm được ngay vào sự bi hài của xã hội Việt Nam thời hậu chiến. Vở kịch “Bệnh sĩ” mang tính xã hội sâu sắc, phê phán tính “sĩ hão” của một số người trơng xã hội thời bao cấp, nhưng vẫn có ý nghĩa thời sự trong cuộc sống hôm nay. ======= PAGE 189 ======= 2. Vở kịch “Người ngựa, ngựa người” - Nguyễn Công Hoan Nghệ sĩ Xuân Hình uà nghệ sĩ Thanh Thanh Hiền trên sân khấu tới uở kịch “Người 'igiư, Hgựa người ”. “Có thể nói Nguyễn Công Hoan là ngọn cờ đầu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Nguyễn Công Hoan đến với chủ nghĩa hiện thực bằng văn học trào phúng, từ rhững truyện đầu tiên, ông đã tìm đề tài trong những người nghèo khổ, cùng khốn của xã hội. Đa số nhân vật phản diện của ông đều thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có và quan lại, cường hào. Toàn những cảnh xấu xa, bị ổi, những chuyện bất công, ngang ngược, những con người ghê tởm, đáng khinh bì. Nguyễn Công Hoan tạo ra những tình huống bất ngờ, rồi phá lên cười và làm cho người khác cười theo, nhưng ngẫm lại thật thương tâm đau xót.” - Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “Người ngựa ngựa người” là một trong những truyện ngắn đặc sắc do Nguyễn Công Hoan sáng tác vào năm 1931, giai đoạn nước ta đang chịu ách đô hộ của thực đân Phạp. cuộc sốrig của người lao động vô cùng cực khổ, nhọc nhẵn, bất công và cay đẳng. Nhà văn đã khắc họa hình ảnh anh phu xe trong đêm giao thừa, qua đó đem đến những hình đụng sâu sắc, thấm thía về số phận người dân nghèo lúc bấy giờ. M7) ngắn đã từ trang sách “bước” lên sân khấu và trở thành một vở bi = .. %& 1eect ======= PAGE 190 ======= lập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? liền với sự duyên dáng của nghệ sĩ Xuân Hinh. Có những thời điểm, tác phẩm trở thành một “hiện tượng”, nam nghệ sĩ mang hình ảnh anh phu xe đến với hàng trăm sân khấu lớn nhỏ trên cả nước. Xuân Hình chia sẻ về vai điễn “huyền thoại” của mình trong lòng công chúng: “Ngựa người, người ngựa là một tác phẩm bì kịch của Nguyễn Công Hoan, nhưng tôi nà Thanh Thanh Hiện đã biến nó thành bị hài kịch.” Các bạn cùng theo đõi vở kịch “Người ngựa, ngựa người” với cô Sương Mai và trò chuyện, suy ngẫm về những tiếng cười hòa quyện với những giọt nước mắt qua vở bi hài kịch này nhé. 3. Luyện tập viết Bài 1. Theo em, “bệnh sĩ” là bệnh như thế nào? “Căn bệnh” này có còn tồn tại đến ngày nay? Bài 2. Điều khiến em xúc động nhất ở vở kịch “Người ngựa, ngựa người” là gì? Hãy viết một đoạn văn khoảng 300 chữ về hình tượng người phu xe trong vở kịch. KIM 1»ÏN TÃI LIỆU KHÓA HỌC HAY MIỄN PHÍ “. ..Òv E `. ““Ỷ ======= PAGE 191 ======= Đa Chủ đẻ b : Sự thật trên trang ký ======= PAGE 192 ======= `. 8.7 cv g lựCt jÚ 0Q0 Hhiều? YÊU CẦU CẦN ĐẠT + Ghi nhớ và phân tích được một số yếu tố của phóng sự, nhật kí, hồi kí như tính phi hư cấu và một số thủ pháp (miêu tả, trần thuật); sự kết hợp chỉ tiết, sự kiện, hiện thực với trải nghiệm, thái độ và đánh giá của người viết. + _ Phân tích, đánh giá được khả năng tác động của tác phẩm kí đối với người đọc và sự tiến bộ của xã hội. *- Giải thích được nghũa của từ trong hiện tượng từ đa nghĩa để vận dụng vào đọc, viết, nói và nghe. * - Viết được bài văn nghị luận văn học so sánh, đánh giá hai tác phẩm văn xuôi (truyện, kí, kịch). À.KIẾN THỨC NGỮ VĂN Phóng sự là một thế loại của kí nằm giữa văn học và báo chí. Đặc biệ b xã hội có nhậu những nhận thức giả dối, đối trá mà ít người dám lên tiếng thì ếng nói móng s tổ sức thuyết phục đặc biệt, có khả năng thức tỉnh độc giả ý thức „ tực 5 ng M tồn » ứng vào thông tin nhiều hơn là những cảm xúc trữ tình. Giá trị của một đến P óng nó phải nêu ra được những bằng chứng cụ thê ước thế hịe At mš ợ ên cả hai mặt: một mặt, g0 | Mai mặt khác, trên cơ sở tư liệu Vé ca MO ở Thằng tạ liệu chính xác bằng con số, biểu đồ, thống k ; _—- Xắc ấy, nó phải đặt ra được những vấn đề mang tính thời sự, có ý ng Nhi ể loại kí mang tính riêng tư, đời thường nhiều ` đủ yg © ctính mình, mình viết để cho mình, nói với | ïm lời văn của nhật kí là sự ngắn :z¬ơ nói nội tâm về những sự việc bé nhỏ, nhiên bởi đó là lời nói ên tron: là tiếng nói nội ¬_ ' nên thường kết hợp linh hoạt tự sự và Âm, ân S Âm sự thầm kín, những ý nghĩ thành thực, 191 hs ======= PAGE 193 ======= trữ tình. Một tập nhật kí có hơi thờ văn học khi thông qua trang viết thể hiện được thế giới tâm hồn của người cầm bút; khi qua những sự việc giản đơn, bình dị của nhịp sống đời thường, tác giả giúp người đọc nhận ra những vấn đề trọng đại lúc bấy giờ. Đôi khi, qua những trang nhật kí tưởng chừng riêng tư, bé nhỏ của một cá nhân, ta lại cảm nhận được tiếng nói, hơi thở của cả một thời đại, của cả một thế hệ. Hồi kí (kí: ghỉ chép; hồi: hồi tưởng lại những kí ức) là thể loại ghi chép các sự kiện xảy ra trong quá khứ, cũng là hình thức văn học riêng tư, mình nói về mình, được xem như một dạng tự truyện của tác giả. Câu chuyện về con người và sự việc trong hồi kí giúp độc giả vừa thấy rõ trải nghiệm đa đạng và đời sống tỉnh thần phong phú của người viết, vừa hình dung được diện mạo chân thực của đời sống lịch sử - xã hội và văn hoá của một thời đã xa. Hồi kí của nhân vật có địa vị trong xã hội (nhà văn hoá, nhà cách mạng, ...) là những tư liệu lịch sử quý giá, có tác động xã hội rất lớn. Tính phi hư cấu trong phóng sự, nhật kí, hồi kí: Tính phi hư cấu trong tác phẩm thể hiện ở những sự kiện có thực (thời gian, địa điểm, người viết, ...) mà người viết đã trực tiếp tham gia hay chứng kiến. Cách phản ánh hiện thực theo nguyên tắc đề cao tính xác thực là đặc điểm của tác phẩm thuộc thể loại kí. Một số thủ pháp nghệ thuật trong phóng sự, nhật kí, hồi kí: Nhờ có sự kết hợp linh hoạt các phương thức tự sự, trữ tình, nghị luận, nội dung đặc thù của kí đã chứa đựng trong bản thân nó cơ sở để “thông tin sự thật” chuyển thành “thông tin thẩm mĩ”. Tự sự là nền tảng cấu trúc của tác phẩm kí. Kí ghi chép các sự việc, thuật lại các sự kiện, biến cố. Những yếu tố tự sự bao gồm những truyện sinh động, những bức tranh có không khí hay những nhân vật sống. Tự sự thường được kết hợp oới miêu tả để cụ thể hóa những hình dung về con người, nơi chốn, sự vật, sự việc. Trong kí có tả người, tả cảnh. Kí là trang thông tin 0ề sự thực của những giá trị nhân sinh. Cho nên, trên rầền tảng tự sự, kí phát triển rất tự nhiên yếu tố nghị luận (bản chất của nghị luận là người oiệt đưa ra quan điểm, suy nghĩ, ý kiến của riêng mình một cách chặt chẽ, thuyết phục, theo một hệ thống lập luận rõ ràng). Phần nghị luận tạo thành tính chính luận như một đặc điểm nổi bật của kí hiện đại. Ví dụ: “Bản án chế độ thực dân Pháp” của tác giả Nguyễn Ái Quốc là biểu tượng của sự kết hợp bài tình giữa thể phóng sự điều tra và kí chính luận. Việc nhận thức những giá trị nhân sinh cũng mở đường để kí kết hợp một cách tự nhiên, 192 ======= PAGE 194 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? linh hoạt giữa tự sự, nghị luận oới trữ tình. Kí không chủ kể việc, tả người, tả cảnh mà còn b tiếng reo vưi trước những vẻ đẹp của cuộc đời, là những thốn thức chân thành nơi trái tim người cầm bút. Vị dụ: Tuỳ bút của Nguyễn Tuân trang nào cũng rưng rưng một cảm hứng trữ tình trước vẻ đẹp tựa như những công trình mĩ thuật tuyệt đỉnh, tuyệt vời của tạo hoá; trước vẻ đẹp của những con người vừa dũng cảm, cần cù, vừa tài hoa, nghệ sĩ. Tùy bút “Sông Đà” kết hợp một cách nhuần nhuyễn, thành thục và tinh tế giữa tự sự (thuật lại những trải nghiệm của oăn nhân trong 2 năm sắn bó uà khám phá uùng Tây Bắc); với miêu tả (tái hiện sinh động uẻ đẹp dữ dội nà trữ tình của thiên nhiên nơi đâu cũng như chân dung cơn người lao động bình dị mà phi thường trên sông nước); với nghị luận (bà tỏ quan điểm rõ ràng pề các ấn đề xã hội được đan xen linh hoạt); và cả yếu tố biểu cảm (những rung ngân dịu đàng mà tô cùng mãnh liệt nơi tâm hồn người nghệ sĩ “duy mỹ” ấy trước uẻ đẹp của thiên nhiên tà con người). VẬN DỤNG Hãy kể tên một vài tác phẩm văn học thuộc thể loại kí mà em biết. So với những thể loại khác (thơ, truyện, kịch) thì các tác phẩm kí để lại trong em ấn tượng gì nổi bật? 193 ======= PAGE 195 ======= B. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN BẢN 1 MÃI MÃI TUỔI HAI MƯƠI (Trích) Nguyễn Văn Thạc TRƯỚC KHI ĐỌC a. Theo em, vì sao tuổi thanh xuân được coi là độ tuổi đẹp nhất của mỗi người? b. Là một người trẻ ở độ tuổi 17,18; em đã và đang tận hưởng thanh xuân của mình như thế nào? c.. Đã bao giờ em nghĩ về việc cống hiến tuổi trẻ của mình cho quê hương, đất nước? d. Em có cảm nghĩ gì khi đọc tựa đề “Mãi mãi tuổi hai mươi”? Theo em, vì sao tuổi hai mươi của người viết lại là “raãi mãi”, trong khi vốn dòng chảy tháng năm đâu có chờ đợi ai, đâu có cho tuổi trẻ ai kéo dài vĩnh cửu...? ĐỌC VĂN BẢN 2.10.1971 ị Nhiều lúc mình cũng không ngờ nổi rằng mình đã đến đây. Không ngờ rằng trên mũ là một ngôi sao. Trên cổ áo là quân hàm đỏ. Cuộc đời bộ đội đến với mình tự nhiên quá, bình thản quá, và cũng đột ngột quá. Thế là thế nào? Cách đây ít lâu, mình còn là sinh viên. Bây giờ thì xa vời lắm rồi những ngày cắp sách lên giảng đường, nghe thầy Đường, thầy Đạo... Không biết bao giờ mình sẽ trở lại những ngày như thế. Hay chẳng còn bao giờ nữa! Có thể lắm. Mình đã lớn rồi. Học bao lâu, mà đã làm được gì đâu, đã sống được gì đâu? Chỉ còm cõi vì trang sách, gầy xác đi vì mộng mị hão huyền. _" 28 ngày trong quân ngũ mình hiểu được nhiều điều có ích. Sống được hiệu, ngày có Ỷ nghĩa. Dọc đường hành quân, có địp xem Bc- iỂ- mữnH Nà3ie§Ùong th mg . “Nh mm m4 SN ` `Ý NÓ Xe , ^“ R „ NT ` › : _ l ° W ˆ - - _. ======= PAGE 196 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Mình bắt đầu sống có trách nhiệm từ đâu, từ lúc nào? Có lẽ từ 9.3.71, tháng ba của hoa nhân ban trưa, của hoa sấu và hoa bằng lăng nước. Những người bạn thân yêu của mình đã lần lượt đi học xa hết cả rồi. Mỗi người một phương. Các bạn đã đi lên phương Bắc. Còn mình, sẽ đi về phương Nam... Đêm Hà Bắc thật thanh bình. Thèm quá, nghe một tiếng thì thào của cánh gió trên đồi bạch đàn... Mình đã sống trên 20 ngày bên hồ cá Yên Duyên, Yên Sở. Ở đó có những đường cây đẹp tuyệt. Mình đã chụp tấm ảnh bộ đội đầu tiên đưới một gốc dừa, sau lưng là hồ cá. Hoàng hôn thong thả thay màu nước. Và ngôi sao Hôm trầm tư, kiêu hãnh đã mọc trên trời. Cuộc đời bộ đội đâu dễ đàng như thế. Mình đã khóc, nước mắt giàn giụa, khi các bạn tiễn mình đi, khi buổi lễ kết thúc, khi bài Quốc ca rung bầu không khí trong lành trên trường Tổng hợp. Bản nhạc này đây, bao lần mình đã nghe, đã cúi đầu suy nghĩ. Nhưng hôm nay mới thực hiểu, thực cảm một điều giản dị: Bài Quốc ca của ta, của tai Khóc, không phải vì hèn yếu, không phải vì buồn bã, mà vì xúc động. Vì buổi chia tay này thiêng liêng quá. Những người bạn thân yêu nhất của mình không thể tiễn mình đi được. Và bàn tay ấy, và đôi mắt ấy, giọng nói ấy... Lên xe rồi, xe nổ máy. Xe Việt Nam sản xuất, tiếng động cơ như tiếng tim mình vậy. Nghẹn thất vì một cảm giác khó tả, mình ngước nhìn lần cuối cùng cánh cửa sổ, nơi hàng ngày mình bò ra, nhìn xuống lòng đường. Khoảng trời nhỏ của riêng mình đó. Một hôm nào, những hôm nào mình mong chờ nhìn thấy bạn của mình đạp xe qua, để mình gọi... Bây giờ, là chia tay, xe lăn bánh, êm ru, xe đi êm, mà bọn mình xô vào nhau, chen nhau thò tay ra cửa. Ngoài kia, là những khuôn mặt gần gũi, tuy có người chăng bao giờ mình trò chuyện, chẳng bao giờ mình nghĩ rằng có họ sống ở trên đời... ở đâu, khuôn mặt thân yêu ấy? Bạn đi, mình không gặp được. Đêm 26.07 chỉ là những gương mặt xa lạ, đầy vẻ háo hức và tự mãn. Rối loạn, và thoảng một thứ mùi khó chịu. Mình không đám đứng lâu và đành chịu giữ một nỗi ân hận giày vò... Mình đi, khi bạn đang bước vào năm học mới. Bước lên giảng đường, bạn có nhớ tới mình không?... Đừng, hãy để tâm hồn trọn vẹn thanh thản, mà đón một mùa xuân của lòng mình. Trang đầu của cuộc đời sinh viên, đừng để rơi một giọt mực, đừng để loang lổ một vết ố vàng. Xe ơi, lao nhanh hơn, cho ta chóng tới gia đình lớn. Nơi ta gửi gắm cả thời thanh xuân của mình... Hơn cả khi trên tay phập phông! tờ Xi tự hào, d, đi động lầm sao khi TIỀN mm mA, “ Sử __ 1. = .~_ ' " .= ¬¬. ~ + anh” - vV bà 195 ======= PAGE 197 ======= trên người ta là bộ quân phục xanh màu lá. Anh sinh viên quen màu trắng áo của cánh cò, quen màu xanh da trời tháng nắng... Mình trút bỏ không thương tiếc, và trìu mến khoác lên mình màu xanh ấy. Màu xanh của núi đồi và thảo nguyên, của ước mơ và hy vọng. Màu xanh bất diệt của sự sống. Trên mũ là ngôi sao. Ta lặng ngắm ngôi sao, như hồi nào ta chỉ cho bạn: Kia là sao Hôm yêu đấu... Nhưng khác hơn một chút. Bây giờ, ta đọc trong ngôi sao ấy, ánh lửa cầu vồng của trận công đồn, màu đỏ của lửa, của máu... Ta như thấy trong màu kỳ diệu ấy, có cả hồng cầu của trái tim ta... Ai ra đi cũng với lòng say lý tưởng, và nhẹ nhẹ bên trong là chút ước mơ. Buổi gác đầu tiên là đêm trăng sáng, là bài thơ, là một trang nhật ký... Sung sướng và hãnh diện biết bao, ôi xóm làng yêu quí, ngủ yên, ngủ yên, có anh bộ đội thức canh trời. Những mái nhà nghiêng như mí mắt thân thương, nhắm ngủ ngon lành... Ta bước nhẹ, lâng lâng một mùi hương quen thuộc. Bưởi đã cuối mùa, ổi đã cuối mùa... Cây lá đang đồn nhựa để trổ ra một mùa quả chín... Đồng đội đọc cho ta nghe những vần thơ trong trẻo: “Gậu Trường Sơn đưa ta lên đường đánh Mỹ. Nồi cơm Thạch Sanh xa là chuuỆn ước mơ Ngự là lòng dân uới người chiến sỹ”. Ta đã đọc ở đây những cái tên lần đầu ta đọc, lần đầu ta biết. Cái tên ấy, những cái tên ấy là một nốt sol điềm tĩnh, nốt la nhí nhánh... là 7 cung bậc của bản đại hợp xướng mà dân tộc ta đang cất lên tiếng hát... „ “Bộ đội đi rồi, chỉ khổ dân, lại nhớ mãi thôi...” Ai đã nói với mình điều ấy, khi trời đang rạng sáng? 9g30 phải vào màn, nhưng ta thức trọn một đêm, với bốn bề đang rạng sáng, mặt trời mọc, và em bé đã ríu rít ở hàng ô rô xén gọn. Một tiếng võng kêu, một vệt nắng kẻ ở ngoài hiên, một con nhện giăng tơ trên cành ổi... Có gì khác với nơi ta ở, nơi ta gửi gắm tuổi thơ. Sông Tô Lịch đen ngòm chảy rụt rè trong thành phố, tới đây, vẫn rụt rè như cây trinh nữ... “Mắc cỡ gì mà khép cánh ư em?” Ta đã bao lần đi bên sông Tô Lịch, trước kia ta khó chịu vì mùi bùn oi nồng... Ta đã mấy lần hành quân bên sông Tô Lịch, ta yêu sông vì bọt tắm sủi, vì màu xanh non, tuổi trẻ có công vun đắp của dòng sông. Có phải lòng sông đã quên mình nhơ bẩn, đã chịu lòng mình 19% ======= PAGE 198 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? mang mùi vị ấy để đem cho đời những cọng rau muống tươi kỳ lạ, để đem màu hồng tưới cho thành phố. Sông Tô ơi, mai trở về, ta khơi lại dòng sông, cho tuổi thơ vẫy vùng, cho con thuyền anh chờ em đi, đi vòng quanh thành phố... Hôm nay, đi bên sông, dưới cái nắng chang chang, trên vai là ba lô con cóc của Trường Sơn. Không thể nói là nhẹ được. Quai đeo thít vào vai, ép lồng ngực lại. Đau và bỏng rát, khó thở. Đè lên hông, ép vào lưng, ướt đầm đìa là mồ hôi ta đấy. Ta đặt ba lô, và cười luôn được. Ừ, cuộc đời ta là thế. Phải cười và phải vui. Bài hát ta yêu là Trường Sơn Đông - Trường Sơm Tâu... Con đường gánh gạo không có muối, nhưng không phải là nhẹ nhõm. Vai sinh viên, mặc dù tâm hồn luôn bay bổng, nhưng không phải là nhẹ nhõm, hơn cả những vần thơ là cái nghiến điếng người trên vai, là cái nóng bàng hoàng, dữ dội... Yên Sở ơi, ta yêu Yên Sở như làng quê ta vậy. Nơi trú quân đầu tiên của đời ta. Nơi ta gợi bạn của mình là đồng chí. Nơi con thơ gọi ta là chú bộ đội, và những cô gái làng gọi ta: Chào các anh bộ đội. Em đừng cười anh vì bộ quân phục thùng thình. Mẹ ta nghèo, rau cháo nuôi ta, đau khổ bốn nghìn năm, chắt chiu từng hạt gạo nuôi ta. Để bây giờ ta lớn. Phải lớn lên, phải to ra cho kịp tầm cao của lịch sử. Cánh tay này, sẽ bóp nghẹt cổ quân thù. Đêm đầy sao, chỉ chít những ngôi sao, như lòng mẹ, như lòng em đứng ở bên đường. Hồ nước trong kỳ lạ. Sao mẹ kể, những cái hồ ấy là nước mắt? Đau khổ nghìn năm, những tròng mắt nào đã đầm đìa để tích tụ thành hồ... Mà hôm nay đời vui như thể? Con cá dưới hồ cũng quẫy, cũng đớp ánh trăng và chào anh bộ đội... Cá, cá ơi, đừng cười anh nhé, đừng kể cho những cô gái trong làng, chuyện bọn anh sợ đỉa, khi các cô ngồi bên bờ này nhắc đến các anh... Quên làm sao vườn nhãn um tùm, nói ngày đầu ta ngồi yên nghe giảng bài chính trị... Đầm ấm quá thôi, trên là cây lá, xanh xanh, lấp lánh ngôi sao trên mũ, lung linh những vì sao trên cổ áo, đỏ như lửa là quân hàm, bùng cháy những ngọn đuốc là trái tim ta... Ê a, ê a là lời em thơ tập đọc. Cô gái nào mà dáng thanh thanh giống người ấy thế... Kỷ niệm lắng sâu, theo ta vào trận đánh... Nhưng hôm nay, hôm nay sao khỏi bồi hồi. Nồi nước mẹ đun sao thơm kỳ lạ. Có phải đẳng cay cả một đời, nên bát nước mẹ đun ngọt ngào đến thế? Chia tay với con mà mẹ vẫn cười, âu yếm... Hành quân từ 5 giờ chiều đến 9 giờ đêm, đẹp lắm. Trăng đầu tháng còn đỏ quạch, cứ Bợi cho ta nhớ một cánh buồm. Đấy, cánh buồm đỏ thắm, đựng đầy gió, gió cuốn những 197 ======= PAGE 199 ======= ø thuyền và đẩy thuyền trôi trong tâm tưởng... Ngủ bên bờ một ngôi sao đêm, ùa vào lòn ø dừa thật đẹp. Trời trong quá, dây điện chăng nhự những dòng sông, có những đườn dòng kẻ của trang vở học trò. Đừng bấm đèn trêu họ, cứ để họ nói chuyện với nhau, Anh con trai sắp xa người bạn của mình. Cô ta lại về trường học tiếp. Chỉ còn vài Hếng nữa thôi là còi tàu, là chuyển bánh. Anh dặn gì cô ấy, có lẽ chẳng dặn gì đâu, và chỉ mỉm cười... Cậu nào đã cất tiếng hò: “Tiếng ai như tiếng chuông 0àng Tiếng ai như tiếng cô nàng của anh... ” Còn tiếng này thì đúng là giọng anh Châu rồi, anh “Mộng Châu”: “Anh yêu em lắm em ơi, Nhưng anh chẳng dám ngỏ lời uới em...” Lính khoái, cười khúc khích... Những vì sao dưới sông cũng va vào nhau... Những cánh đừa cũng nắm tay nhau tỉnh nghịch bay qua bầu trời thanh bình. Tiếng động cơ như xay lúa. Đêm đẹp vô cùng, ta lắng nghe đất thở. Anh bạn nằm bên rợi đèn pin tìm gì, có phải anh tìm ế ân cù ả ê Ẻ con đế đang cần cù đạo bản nhạc đêm của Pritsvin? Không cưỡng nổi, ta lấy gy và viết thư cho Như Anh.... “12 giờ đêm 28/9/1971” Như Anh có thí ũ R R $ ¬-. có thích đọc những dòng này hay không? T. viết cho Như Anh khi đang nằm m bờ một con sông, Sông đẹp lắm. Đêm rã „ h rất ` v R ñ . chân trời ất khuya. Vành trăng đỏ quạch sắp lăn xuốn§ Đồng đội của T. người thì : » ệ ó 21á h , _ . "guời lì dang ngủ, người đang nói chuyện. Dưới cuốn sách mà 1.kẻ có 214 thư sắp gửi cho Như Anh. Sương ướt đẫm vải nhựa. Không một ánh đèn. Chỉ nhữổ vì sao, soi cho T. viết những đòng này, Bắt đầu cuộc đời bộ đội là thế này đây. Tối qua, nhưng cứ viết. T. thích thế: Rồi đây; sẽ có nhiều lúc T. viết thế này. Chắc xấu như ma lem, (Hành quân đây - chào Như Anh nhé — Thật tiếc) 198 ======= PAGE 200 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Như Anh (Ảnh chụp năm 1972) Đến ga rồi, ga Văn Điển. Nhưng nào có tàu. Mệt quá, lại phải gánh nồi quân dụng. Chẳng chịu được nữa, mình ngồi bệt xuống đất, dựa vào ba lô mà ngủ. Suyt, nói giấu các “o văn công” chứ, thật đúng với câu: “Má văn công, mông bộ đội” (1). Những chuyến tàu đêm chạy từ Hà Nội đến, cánh cửa, ô cửa thương nhớ. Tàu phi ra những cuộn khói, những đám mây nhân tạo. Mặc kệ, tớ còn ngủ. Đợi một chuyến đi xa... Sau cùng thì cũng xếp được ba lô lên tàu. Tàu T.Q, khá rộng. Mình chẳng có chỗ đứng, đành đứng trước chỗ đi giải. Thật bất tiện. Nhưng chẳng sao hết. Đêm âm u quá, cánh đồng vắng lặng, chỉ nghe tiếng gió, tiếng con tàu thở phì phì. Kia rồi, là Hà Nội, là phố Nguyễn Du lấp lánh sau bức tường của ga Hàng Cỏ. Thôi, chào Hà Nội, 3 hoặc 4 tháng sau ta lại về, ta lại hành hương trên các đường phố vắng gắn bó với cuộc đời ta... Sông Hồng ban đêm, mùa nước, cầu phao dập đềnh, ta nhận ra cầu vì ánh điện. Những con mắt chói ngời kia bảo ta, đó là bờ... Chao ôi, dòng sông Ănggara xa xôi chảy qua thành lêckut, đêm nào có giống đêm nay? Ta như gặp lại khuôn mặt thân yêu ấy. Gió đừng thổi mà mái tóc lại bay rối, lại phải lấy lược chải hoài... Gió đừng thổi, hơi lành lạnh đấy, mà áo thi móng về nhà lại ốm... Bắt đầu xuất hiện bạch đàn đọc theo đường tàu chạy. Cây bạch đàn ta yêu, ta qui. Cây bạch đàn chép lại cho ta một thời thơ ấu đầy chất thơ, và say nồng mùi cỏ mật, Bạch đàn ơi, chạy theo anh nhé, chạy theo tàu của anh và sống mãi với anh. Khi nào anh nằm xuống, ======= PAGE 201 ======= bạch đàn hãy rủ lá, run rẩy và ru cho anh ngủ. Cây bạch đàn cứ cao lớn với đời, cứ hát cho đời bài ca về thầy giáo Đuy Sen và cô học trò giỏi Altưnai, bài ca vê cây phong lá đỏ. Mặt trời mọc rồi, các ô cửa của toa tàu xanh màu quân phục. Em nhỏ trên đồi đi học đấy ư, mà sao khăn quàng bay và bàn tay nhỏ cứ vẫy các anh... Ta bỗng nhớ một đoạn thơ T.H: “Các em ơi, đã học chưa Các anh dựng cho em trường mới nữa. Chúng nó chẳng còn mong giội lửa Trường của em đứng giữa đồi quang Tiếng các em thánh thót quanh làng... ” Ta đã đi qua vùng đồi trung du của Bắc Thái, dấu vết của chiến tranh, của lụt lội còn hẳn rõ ở đây. Ta đã nghĩ gì khi nhìn và lặng người bên hố bom thù đào sâu gần khu gang thép. Mẹ ơi, ở đây con đã hiểu chiều sâu của đất. Cuộc sống thanh bình chủ cho ta giá trị chiều rộng, chiều dài của mảnh sân con thường đùa nghịch, của mảnh vườn tháng 10, mía đang ngọt đần lên ngọn, của ngôi nhà ấm cúng con ngồi viết bài thơ ca ngợi đất. Chưa biết rằng, đất có chiều sâu, mà hôm nay vết bom thù đã khơi dậy cho con... Ga Lương Sơn... hay là ga gì đó, xuống tàu và vào bãi cỏ rộng nghỉ. Khoảng 9 giờ rồi, cỏ may, cô gái nào xưa núi bước chân chàng trai trẻ, ngay gài vào quần các anh bộ đội. Cô muốn thêu gì lưu niệm? Đêm nay, bên bếp lửa nơi trú quân, nặht cỏ may và chắc có anh chàng mơ mộng lại nghĩ hoài một người bạn gái, giỏi nghề may vá... “Em khâu gì vào chiếc áo của anh?” ... Và cả cây mắc cỡ, cô gái ngây thơ, khẽ chạm vao là nép mình xấu hổ, các anh lính trẻ lại cứ trêu hoài... Chuyển tàu, lính xô nhau lên chiếm chỗ gần cửa sổ. Ừ thế mà Vũ Đình Minh lại viết: “Người bốn phương nhìn nhau qua ánh mắt Một chỗ ngồi cũng nhường nhịn cho nhau” (1). Tớ khoái không để đâu cho hết, vì được ngồi bên cửa sổ. Tàu chạy rồi, gió thốc vào mát lạnh. Từ đây, rừng rậm rạp hơn, đồi kề ngay đường tàu chạy. Người kiểm củi trên đồi cứ (Trích “Mãi mãi tuôi hai tơi”, Nguyễn Văn Thực, tái bản lần thứ 11, NXB Thanh niên, 2021) ======= PAGE 202 ======= tạp Ú1 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? SAU KHI ĐỌC —¬ L.Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm: Nguyễn Văn Thạc sinh năm 1952, quê ở làng Bưởi, Tây Hồ, Hà Nội; nhập ngũ năm 1971 khi đang là sinh viên khoa Toán - Cơ, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, hi sinh tại chiến trường Quảng Trị năm 1972. Mãi mãi tuổi hai tươi ghủ chép về cuộc sống của người lính binh nhì với nhiều gian khổ nhưng ngời sáng lí tưởng, tràn đầy ước mơ, hoài bão và tình yêu tha thiết với Tổ quốc, quê hương, gia đình, bạn bè, ... trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Nhật kí này sau đó đã được đạo diễn Nguyễn Hữu Mười chuyển thể thành bộ phim điện ảnh Mùi cỏ cháy, công chiếu năm 2012 và đạt được nhiều giải thưởng danh giá. II. Trả lời câu hỏi Câu 1: Tính phi hư cấu của đoạn trích Mãi mãi tuổi hai mươi được thể hiện ở những yếu tố nào? Điều đó có tác dụng gì đối với nội dung của văn bản? Câu 2: Chỉ ra một đoạn văn có sự kết hợp thủ pháp tự sự và biểu cảm trong văn bản. Việc sử dụng kết hợp các thủ pháp đó có tác dụng gì? Câu 3: Nêu tên và phân tích biện pháp tu từ trong đoạn văn sau: Đêm đầu sao, chỉ chít những ngôi sao, như lòng mẹ, nhất lòng em đứng ở bên đường. Hồ nước trong kỳ lạ. Sao mẹ kể, những cái hồ ấụ là nước mắt? Đau khổ nghìn năm, những tròng mắt nào đã đầm đìa để tích Hị thành hồ... Mà hâm na đời oui như thế? Con cá dưới hồ cũng quẫu, cũng đớp ánh trăng oà chào anh bộ dội... Cú, cá ơi, đừng cười anh nhé, dừng kế cho những cô gái trong làng, chuyện bọn anh sợ đia, khi các cô ngồi bên bờ này nhắc đến các anh... Câu 4: Xác định cảm hứng chủ đạo của văn bản. Câu 5: Em có nhận xét gì về cái “tôi” của tác giả nhật kí qua văn bản? Câu 6: Chỉ tiết nào trong văn bản để lại ấn tượng đặc biệt đối với em? Vì sao? .. s4, ~ & ˆ_ 2 - TQ Câu 7: Thông qua đoạn trích trên, em k2 10) tong thềm của thế hệ "¬ Si 5 4 g ưc l› l1 cử TN ĐÀỤI 3® ~ vn Ỳ 201 ======= PAGE 203 ======= trẻ Việt Nam đối với đất nước trong thời kì kháng chiến? Em học hỏi được điều gì cho cuộc sống và sự chọn lựa của bản thân ngày hôm nay? VĂN BẢN 2 TÔI KÉO XE Tam Lang TRƯỚC KHI ĐỌC 1. Giới thiệu chung Tôi kéo xe là một thiên phóng sự kể về câu chuyện của người kéo xe ở Hà Nội. Nhà văn Tam Lang muốn viết lên những trang phóng sự chân thực nói lên cảnh đời lao động cơ cực của con người trong xã hội thuộc địa. Nhà văn không thể đặc tả kiếp sống ấy dưới lăng kính của một kí giả hay chỉ là một người khách đi trên chiếc xe được kéo. Muốn làm cho thiên phóng sự ấy thuyết phục người đọc về tính chân thực và tính sống động nên Tam Lang đã thực sự “đóng vai” anh phu xe, giống như những người “lành nghề” trong đô thị Hà Nội thời bấy giờ. Việc thoát khỏi vai một nhà báo, một người trí thức, sống đời của một kẻ lao động chân tay làm cho trang viết của Tam Lang có những chỉ tiết vô cùng chân thực và khiến cho thiên phóng sự Tôi kéo xe gây được tiếng vang. 2. Câu hỏi gợi mở a. _ Theo em, nghề kéo xe tay trong thời kì Pháp thuộc là phương tiện kiếm sống của giai tầng nào? b._ Bằng trải nghiệm của bản thân, em hãy dự đoán những người gắn bó với nghề kéo xe sẽ gặp phải những khó nhọc ra sao trong công việc? ======= PAGE 204 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? ĐỌC VĂN BẢN Chương VI: Nhớ đến ông già ba năm trước Gió hồ Trúc Bạch hây hây quạt mát. Đường Cổ Ngư tấp nập những xe nhà gọng đồng sáng nhoáng, những torpúdo với lim- cusine của các khách thừa lương. Được tắm gội bằng lưồng gió mát, người họ chắc nhẹ như chiếc lông hồng. Cùng ngọn gió hồ, cùng cảnh mặt nước gọn trăng mà tôi thì thấy như bứt rứt. Cái đấm bị ở vai, không đau bằng xương sườn, xương gáy với xương ống chân mỏi rức. Rức xương lại chưa bằng rức óc. Mà lúc ấy thì tôi mỏi rức cả óc lẫn xương. Cải óc bảo cái xương: “Mày cũng như tao, đang đau rức”, rồi lại bảo cái mắt: “Chúng mày hãy trông trên đường”. Trên đường có cái gì? Một anh chàng béo như con trâu trương với bốn đứa con - thiếu chị vợ để họp thành cả một gia đình - cùng ngồi trên chiếc xe, một người kéo đi bước một. Đổi địa vị, bây giờ cho người này ngồi lên, người kia bước xuống. Kéo được ba bước, người kia rồi phải trỏ vào mặt người này mà nghiến hai hàm răng thật chặt: ~ Chúng mày tàn nhẫn lắm, quân bất lương! Những buổi tối mùa hè người ta thường nghe những tiếng: — Mày đánh xe kéo mợ đi chơi mát! ~ Mười lăm xu một giờ, có đi không? Rồi, ngang dọc, khắp đường, người ta thấy những gái đã năm con còn phấn đắp như trát, ngồi lấy bộ cho đẹp trên những chiếc xe sơn đỏ, sơn đen; thằng xe thì kéo bở hơi tai, ống chân phải bó zả cạp để tỏ cho người biết bà chủ nó là nhà sang trọng. Lại những thẳng vai so đầu mướt, to lớn như ông Hộ pháp, nằm sóng sượt trên những chiếc xe đi giờ, miệng phì phào hơi thuốc Ăng-lê, hai mắt như mắt Long thần, hết nhìn ngang lại nhìn dọc... ~ Mười lăm xu một giờ, có đi không? — Mày kéo mợ đi chơi mát! Mười lăm xu một giờ. Ba đồng một tháng. Bát mồ hôi pha máu của người, họ đánh giá không được một đồng kẽm. Thật quân bất lương! Ngồi nghĩ ngợi lan man sau khi đã mặc bộ quần áo phu xe, nghe người ta mắng chửi, 203 ======= PAGE 205 ======= chịu người ta đánh đòn, tôi lại sực nhớ đến một ông già tôi gặp khoảng ba năm trước. ~ Kéo xe đôi, - Bạn tôi với tôi - ông già chạy chậm. Bạn tôi gắt: ~ Chạy nhanh lên chứ, khéo khi lắm! Ông già vừa thở vừa đáp: ~ Các thầy có kéo xe như tôi, các thầy mới biết. Bạn tôi nhảy xuống xe toan đánh thằng xe hỗn, nếu tôi không tốt can. Chuyện ấy, đã ba năm. Bây giờ, chắc ông già ấy đã chết. Mà làm cái nghề này, sống lâu làm sao được? Chạy suốt ngày. Ăn không đủ. Tấm thân lại đầm mưa dãi nắng... Người ta nói: - Quả ở xứ nóng, quả chín sớm. Tôi bảo: — Người làm cu li xe kéo, người chết non! Chương XVI: Sau một trận thừa sống, thiếu chết Cái đời, người ta phải lừa lọc nhau, xử tàn tệ với nhau mới sống được, thì sự mình ăn hiền, ở lành, thật thà như đếm, nó chỉ là cái trò cười của một thằng nhà quê ngu ngốc trước đám đông những kẻ thị thành, Cái nghề làm xe kéo nó nuôi sống tôi cho đến bây giờ, từ sau hôm bị mẻ đòn thừa sống thiếu chết ở nhà cai xe, đã đưa tôi vào một đường đi khúc khuỷu, gồ ghề, con đường bẩn thỉu tối tắm của một phường trâu chó. Bấy giờ tôi nghĩ: cái manh áo thâm nhà nho từ ngày còn ở Thái Bình đã bị chúng nó lột rồi thì tính cách nhà nho mình chẳng vứt đi, còn giữ làm gì nữa. Ăn của chó phải gục đầu với chó. Tuy đã bảy năm giời làm nghề xe kéo mà từ hôm ấy, tôi mới thật hoàn toàn là một thằng cu li. Hôm ấy là hôm nào, rồi đã xảy ra những chuyện gì? Đây, tôi kể cả lại đây cho mà nghe, nghe rồi mà ngẫm nghĩ. Cách đây đã bốn năm, một hôm ở hàng cơm Ba Gà ra, trong túi tôi còn thừa được những bảy hào với hai xu lẻ. Tôi nhớ rõ vì hôm ấy vừa đếm lại tiền xong thì có người gọi 204 ======= PAGE 206 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? tài kéo lên nhà Dây thép Bờ Hồ. Đến nơi, anh ta xuống xe, bảo tôi đỗ gác-đê. Vào nhà Dây thép được một lát, anh ta lại ra, bảo tôi đưa cho mượn năm hào, nói rằng mua tem, chỉ có giấy hai mươi đồng mà ông ký đây thép thì không sẵn có tiền lẻ. Tôi móc hà bao, lấy đúng năm hào đưa anh ta. Từ lúc ấy, tôi cứ yên trí ngồi chờ. Người ta gọi, tôi bảo xe tôi gác-đê (garder = chờ), rồi lại thùng thỉnh đến chỗ hàng nước đầu hè làm hóp chè tươi, xin cái tăm rồi quay lại chỗ sân xe, ngồi xia. Đợi mãi từ tám giờ sáng cho đến chín giờ, tôi thấy người này người khác tấp nập vào, ra, còn ông khách của tôi thì càng chờ càng mất vía. Tôi nóng ruột quá. Thấp thỏm, tôi mon men vào nhà Dây thép thăm dò. Tôi không nhận ra được ai vì trong sở bấy giờ đông người, nên tôi lại ra, lại cứ chỗ cũ mà ngồi, nhưng vẫn cứ thấp thỏm. Mười giờ hơn, khách ở trong đã vãn. Tôi lại sục vào tìm lần nữa thì thằng kia đã biến đâu mất từ lúc nào rồi. Trời rét như cắt ruột mà tôi vã cả mồ hôi. Dở khóc dở mếu bước ra, tôi lồng đi ầm, đi hỏi. Thấy thế, người qua đường, cả các anh em cu li cũng xúm quanh cả lại. Tôi kể chuyện, thì họ bảo chắc nó chuồn ra cửa đẳng vườn ông Bôn-Be rồi. Tôi vẫn chưa tin hẳn, cứ nghĩ bụng: một người áo xa tanh, khăn lượt xếp, sang trọng như thế, ai nỡ đi lừa mấy hào bạc của một thẳng nghèo khổ đã phải làm cái nghề đi kéo xe tay. Rồi cứ quanh quấn mãi ở đấy cho đến mười hai giờ, bấy giờ tôi mới biết mình nghĩ nhầm, mà người ta nói phải. Tôi uất ức, kêu khóc rầm đường như một thằng điên dại. Làm thế nào cho có đủ thuế, mà một giờ rưỡi chiều đã phải đem tiền nộp cho cai xe rồi. Từ lúc ấy đến hơn một giờ rưỡi, tôi cũng không kéo được thêm ai. Đang suy tính không biết nên kéo liêu đi hay nên quay xe về thì trước mặt tôi đã sừng sững cái xe lết của cai Ð. tiến lại. Tôi mất cả hồn vía, mắt thủ hoa lên, chân tay cũng run lấy bẩy. Thằng cai nhảy xuống xe quát hỏi; nó thấy tôi van lạy, chừng đã đoán tôi thiếu thuế, nên sấn ngay lại tứm lấy ngực, lên gối, rồi đìm đầu tôi xuống, đánh túi bụi một hồi. Đánh rồi, nó lại bắt cời cả hai lần áo, 205 ======= PAGE 207 ======= nắn áo, lại soát cả lưng tôi. Thấy trong túi có nguyên cái ống thuốc lào với hai hào hai, nó vứt ống thuốc đi, bỏ chỗ hào vào túi. Khám hết quần, nón, nó lại lật khám đến đệm mui, Giời rét, nó cũng chẳng trả áo cho tôi mặc vào, da đẻ tôi, những chỗ bị đòn, tím thâm tím bầm cả lại. Nó hầm hầm không nói, bắt tôi cứ ở trần như thế kéo xe đi, rồi nó nhảy lên xe đạp đi kèm tôi. Dọc đường, nó chửi rủa không còn thiếu gì lời, vu cho tôi đã chuyển tiền cho người nhà, lại dọa về đánh một trận cho tôi biết tay, để từ giờ đừng ăn cắp như thế nữa. Tôi muốn nói, nhưng cái tức đưa đầy lên đến cổ. Bị rét, bị đánh, tôi không cần gì cả. Nhưng nó chửi tôi là thằng ăn cắp, tôi ức quá, tôi có ăn không ăn hỏng của ai bao giờ. Quẳng tay xe xuống, tôi sấn lại, đánh cho nó một quả đấm vào mặt, ngã quay lơ. Nó nghĩ tôi chạy, nên vừa bò dậy, vừa kêu lên, nhưng tôi vẫn nghiến hai hàm răng, sừng sững đứng nhìn vào mặt nó. Chỗ ấy chỉ còn chừng vài chục bước nữa thì về đến nhà. Người nhà nó thấy tiếng kêu, đổ xô cả ra, nhưng nó cũng đã túm lấy đầu tôi, kéo được về đến cửa. Tức thì đánh, chứ thân hình tôi thế này, địch lại thế nào được với nó. Nó thì xương đồng da sắt, tôi, hai tay như hai ống sậy, trói chẳng nổi con gà. Cái trận đòn hội chợ ở nhà nó hôm ấy, tôi nghĩ còn kinh cho đến bây giờ. Bác có biết nó làm những gì không? Thật tàn nhẫn quá. Giam tôi vào một gian buồng hẹp, trói ghì cánh khuỷu tôi lại, bốn thẳng nó chuyên tay nhau đấm đá. Đá chán, chúng nó thay lượt nhau tứm tóc lật ngửa mặt tôi lên mà vả, rồi lại buộc thừng vào chỗ trói cánh khuỷu, giật tôi lên xà nhà. Lúc mới, tôi còn hăng máu, không thấy gì. Sau, tôi thấy như hai cánh tay tôi lìa hẳn bả vai ra, hai má tôi bị lột mất lần da, mà hai mạn xương sườn cũng như rời từng cái một. Lơ lửng giữa phòng, mặt tôi úp nhìn xuống đất. Dưới chân tôi, những viên gạch cứ quay như chong chóng. Tôi nhắm nghiền hai mắt. Trong tai tôi lại thấy vù vù như có tiếng bay của một đàn ong. Rồi miệng tôi sùi bọt, mũi thì đổ máu, mắt tôi nảy đóm lên. Tôi mê man rồi thiếp đi đần, ngất đi lúc nào không biết. Mở mắt ra, tôi thấy tôi nằm trên một mảnh ván để sát ngay dưới đất, đầu thì ướt như người mới gội, lại hâm hấp nóng như hơi chõ nước ngùn ngụt bốc lên. Trong gian nhà ấy, trông nghiêng trông ngửa, tôi biết tôi chỉ có một mình. Vừa toan 2% ======= PAGE 208 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? „ùng đậy ngồi lên, tôi thấy vướng hai tay, mới biết cổ tay tôi đã bị sợi dây thừng trói chặt. Lợi ráo, cả hai hàm răng cũng khô, miệng tôi đã se cả nước bọt. Đưa cả hai tay bị trói chụm làm một sờ lên trán, tôi thấy trán tôi nóng lắm. Tôi sốt. Người tôi nóng như điên lên. Một lát, thằng cai lại vào, nó thấy tôi mở mắt thì đứng trâng tráo đấy mà nhìn. Nhìn chán, nó khạc nhổ vào mặt tôi mà chửi đồn: “Mẹ kiếp, mày đã biết tay bố mày chưa, hay cờn bướng!” Cổ ráo quá, tôi lạy van mãi, chúng nó cũng không thí cho được một ngạm nước. Bấy giờ, thật ra, tôi cũng không biết là chiều hay sáng, chỉ thấy ngoài sân, lấm tấm mưa phùn. Một lát, nó sai người cời trói tôi, rồi ném trả vào mặt cái áo nâu cánh lấm đầy bùn. Tôi cầm áo đứng lên, chạy ra sân chuồn ra cổng. Ôm bộ xương rũ với một đống giẻ rách, tôi lom khom thất thểu trên đường. Được mấy hạt mưa bay vào mặt, vào lưng, tôi cũng thấy đỡ hẳn được con sốt nóng. Người tôi bấy giờ mỏi mệt lắm. Trông chiếc đồng hồ của một nhà trong phố, mới biết bấy giờ đã chín giờ sáng, thì ra tôi bị cai xe bắt giam mất một ngày một đêm. Suốt nửa ngày với một đêm mê man, tôi không được lấy một hột nước hay hột cơm vào bụng. Qua cái máy đầu Hàm Long, tôi vục mồm vào một thùng nước mà uống, cũng chẳng buồn nghe những câu chửi mắng của con mẹ có chiếc thùng. Một trận ấy, tôi về ốm mất mười hai hôm. Vợ tôi, trước còn đem bán chiếc nồi đồng lấy tiên nuôi thuốc nuôi cơm, sau khánh kiệt trong nhà, nó phải khóc lóc đem bán cho chị em chiếc quần lĩnh Bưởi may mặc Tết. Từ hôm ấy, tôi trông những người chung quanh tôi toàn như loài rắn loài rết... Thế rồi tôi phạm vào một tội ác, rồi tôi làm nghề ma cô đi dụ gái, rồi tôi nghiện thuốc phiện, rồi tôi ăn nói đểu cáng, vạch quần đứng đái vào chân ngay giữa phố không thẹn, vừa chạy xe ngoài đường vừa đánh trung tiện không ngượng.... nói tóm lại, nghĩa là tôi không còn trồng thấy ai hết, cũng như thẳng ra đồng đại tiện có ngượng gì với cái Vàng cái Vện đứng chực quanh. (Trích “Tôi kéo xe”, Tam Lang, NXB Hội Nhà uăn phối hợp uới Công tụ Nhã Nam tái bản năm 2014) 207 ======= PAGE 209 ======= SAU KHI ĐỌC 1. Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm: Tam: Lang (1900 - 1986) tên thật là Vũ Đình Chí, sinh tại Hà Nội, là một trong những nhà văn, nhà báo nôi tiếng của Việt Nam. Ông cùng với Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng là “ba chàng họ Vũ” nổi danh làng báo thời chiến. Tôi kéo xe là thiên phóng sự được viết vào năm 1982 đăng trên “Hà Thành Ngọ Báo” phản ánh sự vất vả, tủi nhục của người phu kéo xe. Tác phẩm được in thành sách vào năm 1935 và 1969, được xếp vào hàng “Việt Nam danh tác”. II. Trả lời câu hỏi Câu 1: Những dấu hiệu nào giúp em nhận biết văn bản trên thuộc thể loại phóng sự? Câu 2: Liệt kê các sự việc chính theo trình tự được lặp lại trong văn bản. Câu 3: Nhận xét về tác dụng của việc sử dụng ngôi kể thứ nhất trong bài phóng sự. Câu 4: Chỉ ra và phân tích yếu tố tạo nên giọng điệu của bài phóng sự. Câu 5: Chỉ tiết nào trong văn bản để lại ấn tượng đặc biệt đối với em? Vì sao? Câu 6: Bài học sâu sắc đặt ra trong văn bản là gì? Điều đó theo em có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống ngày hôm nay? Câu 7 (Bài tập sáng tạo): Vẽ một bức tranh về người phu xe đang chờ khách giữa đô thị Hà Nội thời Pháp thuộc hoặc viết một đoạn văn (độ dài 200 chữ) thể hiện suy nghĩ của em về sự vất vả, tùi nhục của người phu xe. Ũ " - =-_ ¬ „ấn _.-_ ' -... “ ======= PAGE 210 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? C. TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH LUYỆN TẬP GIẢI THÍCH NGHĨA CỦA TỪ I. Kiến thức chung: Nghĩa của từ Nghĩa của từ là nội dung (sự vật, tính chất, hoạt động, quan hệ, ...) mà từ biểu thị. Nghĩa của từ được nhận diện thông qua nhận thức, sự hiểu biết của mỗi người. Có thể giải thích nghĩa của từ bằng một số cách chính sau đây: 1. Giải thích bằng cách nêu khái niệm mà từ biểu thị. Ví dụ: Cách giải thích các thuật ngữ phóng sự, nhật kí, hồi kí ở phần Kiên thức ngữ uăn. 2. Giải thích trực quan. Chẳng hạn, giải thích nghĩa của từ quân phục bằng cách cho người thắc mắc xem bộ quân phục thật hoặc hình bộ quân phục; giải thích nghĩa của xe kéo bằng tranh, ảnh, video. 3. Giải thích bằng cách đặt từ cần giải thích vào trong một câu cụ thể nhằm xác lập ngữ cảnh sử dụng, Chẳng hạn, nghĩa của từ say trong những câu thơ sau đây sẽ khác nhau: Các cụ ông sa thuốc Các cụ bà sau trầu Còn con trai con gái Chỉ nhìn mà sa nhau. (Đám cuới ngày mùa, Phan Thị Thanh Nhàn) 4. Giải thích bằng các từ đồng nghĩa, trái nghữa. Ví dụ: tự tin trải nghĩa với tự H, lầu hỗn đồng nghĩa với xe lửa. 5. Giải thích bằng cách giải nghĩa các thành tố tạo nên từ đó. Chẳng hạn, cố nhân là “bạn cũ” (cố có nghĩa là “cũ để tạo ra nét chữ”. „ nhân có nghĩa là “người”), bút mực là “loại bút sử dụng mực II. Luyện tập Bài 1: Cụm từ “giăng tơ” trong những ngữ cảnh sau mang nghĩa gì? Hãy giải thích nghĩa của từ “giăng tơ” theo những cách khác nhau mà em biết. 20 ======= PAGE 211 ======= 4. Lòng thấu giăng tơ một môi tình Em ngừng thoi lại giữa lay xinh Hình như hai má em bừng đó Có lẽ là em nghĩ đến anh. (Mưa xuân - Nguyễn Bính) b. Đêm qua ra đứng bờ ao, Trông cú, cá lắn, trông s80, sa0 mờ, Buồn trông con nhận giăng tơ, Nhận ơi nhện hỡi, nhện chờ mỗi ai? (Ca dao) €. Hà Nội còn là rộng quá Các đường như nhện giăng tơ Nào những phố nàu phố kia Gặp mẹ làm sao gặp hếH (Lời ru trên mặt đất, Xuân Quỳnh) Bài 2: Xác định cách giải thích nghĩa của từ được dùng trong những trường hợp sau: a. Châu thổ: đồng bằng ở vùng cửa sông do phù sa bồi đắp nên. b. Mô iê: (từ ngữ địa phương miền Trung) đâu đó. c. Chủ nnghia cực đoan: những tư tưởng, riềm tin thái quá, thiên lệch đến cực độ, có thể dẫn đến việc sử dụng bạo lực và các hành vi vượt quá chuẩn mực đạo đức xã hội để bảo vệ tư tưởng, niềm tin cực đoan ấy. d. Phát phụ (phát: tóc; phu: da): hai thứ tượng trưng cho cơ thể con người. e. Chim tăng ló: tên gọi theo tiếng kêu của một loài chim đẹp, lông màu xanh, thường hót 210 ======= PAGE 212 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? vào mùa hạ, tiếng hót cao và buồn. Bài 3: Điền các từ sự bấf định, chồn, chim xanh vào chỗ trống tương ứng với phần giải thích nghĩa phù hợp: a.— ..«.................... trạng thái không ổn định, chắc chắn. `. : (nghĩa đen) mỏi mệt đến mức không cử động được. lẽ. : để chỉ người đưa tin, người làm mối. Bài 4: Giải thích nghĩa của các từ sau và xác định cách giải thích nghĩa đã dùng: a. nguuÊn liệu b. cảm hứn c. kíức 4ä. cốhương Đặt câu với các từ trên. D. VIẾT VIẾT BÀI VĂN SO SÁNH, ĐÁNH GIÁ HAI TÁC PHẨM VĂN XUÔI Tiếp nối với bài 3: Chạm uào thế gian rực rỡ, chúng ta sẽ tìm hiểu về cách phân tích, so sánh, đánh giá hai tác phẩm văn xuôi (tập trung 0ào ba thể loại: truyện ngắn, kí, kịch). L Tri thức về kiểu bài (Xem mục Tri Hiức uề kiểu bài ở Bài 3) HI. Đọc ngữ liệu tham khảo và trả lời câu hỏi (Biên soạn dựa trên bộ sách “Chân trời sáng tạo”) 211 ======= PAGE 213 ======= Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) - những điểm tương đồng, khác biệt nhìn từ thể loại, phong cách. Trong văn học hiện đại Việt Nam, nói đến tùy bút, người ta thường nhớ ngay đến Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bởi đó là hai tác giả, người trước, kẻ sau đã ghí được những thành công vang dội, để lại những dấu ấn khó quên qua các thiên tuỳ bút của mình: một Nguyễn Tuân với những trang văn tài hoa, tài tử và một Hoàng Phủ Ngọc Tường với những trang viết sâu lắng, dịu dàng. Đặt Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân cạnh Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta có thể thấy rõ hơn giá trị đặc sắc của mỗi tác phẩm cũng như sự tương đồng và khác biệt trong lối viết giữa hai tác giả."”) Quả thật, khi đặt hai tác phẩm nêu trên cạnh nhau, người đọc để dàng nhận thấy giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường có không ít điểm tương đồng, gặp gỡ thú vị. Trước hết, giữa hai tác phẩm có sự gần gũi về thể loại và đề tài. Cùng là tùy bút, Người lái đò Sâng Đà và Ai đã đặt lên cho dòng sông? đều thấm đượm chất trữ tình, chất thơ, giàu suy tưởng, cho phép tác giả phát huy khả năng liên tưởng tự do phóng túng. Hơn nữa, cả hai tác phẩm đều chọn đối tượng thẩm mĩ là dòng sông gắn với đời sống con người, với lịch sử quê hương, đất nước: sông Đà của Tây Bắc hùng vĩ và sông Hương của Huế “đẹp và thơ”. Sự tương đồng trong cách lựa chọn thể loại, đề tài của hai tác giả đã đưa đến sự gặp gỡ quan trọng và thú vị hơn: cả hai tác phẩm đều mang lại những phát hiện bất ngờ về vẻ đẹp đa dạng và độc đáo của những dòng sông tưởng như đã quá đỗi quen thuộc. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên trong sự đổi lập mà thống nhất giữa cái hùng vĩ, đữ đội (đoạn miêu tả con sông chảy qua vùng núi non hiểm trở, lắm thác nhiều ghềnh) với nét đẹp thơ mộng, trữ tình (đoạn tả con sông ở hạ lưu). Dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương cũng trở nên mới mẻ, độc đáo trong sự đa dạng mà thống nhất. Đó là vẻ đẹp đa dạng trong nét riêng khó lẫn của mỗi phân khúc sông Hương (sông ở thượng nguồn, sông ở ngoại ô, sông chảy trong lòng thành phố, sông chảy ra biển cả,..). Tuy vậy, sự đa dạng của sông Hương, suy cho cùng là sự đa đạng của cái thi vị, mộng mơ nghĩa là sự đa đạng của chất thơ. Thêm nữa, vẻ đẹp và sức sống của hai dòng sông đều được miêu tả trong mối quan hệ với sinh hoạt của con người. 22 ======= PAGE 214 ======= lạp UI - Ngoài kia rực rõ bao nhiêu? Nếu như sông Đà là môi trường tôi luyện phẩm chất trí dũng, kiên cường và chất nghệ sĩ tài hoa của người lái đò trên sông, là lửa thử vàng, làm phát lộ “chất vàng mười trong tâm hồn” người Tây Bắc, thì sông Hương là bà mẹ xứ sở mang trầm tích văn hóa qua thời gian và lịch sử của đời sống kinh thành cổ kính. Chính vì thế, sông Đà và sông Hương đều trở thành những hình tượng nghệ thuật tráng lệ, mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Tuy nhiên, hai thiên tuỳ bút mang hai phong cách khác nhau. Nét độc đáo trong mỗi phong cách thể hiện qua nhiều yếu tố: cách quan sát miêu tả đối tượng; cách huy động kiến thức đời sống, sử dụng ngôn từ; cái tôi trữ tình trong mỗi tác phẩm, ... Nét khác biệt trong cách quan sát, miêu tả dòng sông thể hiện ở chỗ Nguyễn Tuân chú ý nhiều đến vẻ đẹp tự nhiên hùng vĩ của sông Đà, còn Hoàng Phủ Ngọc Tường lại tập trung quan sát vẻ đẹp văn hóa giàu màu sắc trữ tình đầy thơ mộng của sông Hương. Những đoạn văn hay, giàu ấn tượng nhất của Nguyễn Tuân là những đoạn miêu tả vẻ “hung bạo” của sông Đà và cuộc sống đầy kịch tính trên sông với những viên tướng đá, những hút nước, những trùng vây, những cửa tử,... Các hình ảnh, âm thanh được miêu tả đều tác động mạnh vào giác quan người đọc. Còn thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại thuộc về những câu văn viết về vẻ trữ tình của Hương Giang, một vẻ đẹp đa dạng của “thiên tính nữ”: vẻ nữ tính man dại của một cô gái Di gan; vẻ nữ tính e lệ, đoan trang của cô tiểu thư xứ Huế trong tình yêu...; và bao trùm lên tất cả là vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng của “mẫu tính”: “sông Hương mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Nét riêng trong cách huy động kiến thức đời sống và sử dụng ngôn từ của mỗi tác giả qua hai tác phẩm cũng rất đậm. Cái uyên bác của tác giả hình tượng sông Đà là cái uyên bác tử trải nghiệm thực tế, cái uyên bác của tác giả hình tượng sông Hương có lẽ đền từ niềm say mê văn hoá. Nguyễn Tuân thích tạo nên những từ ngữ mới, câu chữ cầu kỳ, biến hoá, co duỗi nhịp nhàng. Hoàng Phủ Ngọc Tường lại thích một lối văn câu chữ mượt mà, uyển chuyển; từ ngữ hình ảnh thấm đượm những suy cảm. Đối với thể tùy bút, cái tôi trữ tình có một vị trí rất quan trọng. Đó là cái tôi nghệ sĩ, vừa chỉ phối vừa thấm nhuần trong mọi yếu tố của tác phẩm, góp phần định hình nên phong cách nghệ thuật của tác giả. Cái tôi ấy, khi được phát huy một cách tự nhiên, cao độ trong tùy bút, sẽ làm nên sức hấp dẫn riêng của tác phẩm. Tuỳ bút của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là những minh chứng sinh động cho điều đó. Tạ bắt gặp trong “Người lái đò Sông Đà” một cái tôi độc đáo, khác biệt: thích quan sát, miêu tả tỉ mi bằng nhiều giác quan; thích huy động tối đa vốn hiểu biết và trải nghiệm phong phú của mình; thích phát hiện nét độc đáo, khác thường trong đối tượng miêu tả nhằm mang lại ấn tượng 213 ======= PAGE 215 ======= thật sâu sắc, khó quên cho người đọc. Cái tôi ấy muốn người đọc phải cùng với nó nhìn ngắm, sờ chạm, cùng hình dung tưởng tượng về sông Đà và ông lái đò “tay lái ra hoa” trên sông Đà. Ta cũng bắt gặp trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” một cái tôi không kém độc đáo, hấp dẫn: thích quan sát sự vật, con người không phải ở bề mặt mà ở chiều sâu, từ đó lật mở những tầng vỉa, trâm tích văn hóa thường bị vùi lấp bởi dòng chảy của thời gian và lịch sử. Đó là cái tôi điềm tĩnh, thâm trầm, thích suy tư, giàu nội cảm và cũng giàu khả năng hòa nhập, hóa thân vào đối tượng, miêu tả. Chả thế mà đọc “Ai đã đặt tên cho đòng sông?” một số người nhận thấy ở đó dường như có sự thống nhất giữa sự nhạy cảm của một người nghệ sĩ với sự thâm trầm của một triết gia. Nhiều người khác lại nghe thấy ở đó một giọng văn mềm mại, kiều mị, nữ tính như giọng một cô gái Huế Phải chăng là vì nhà văn đã hóa thân vào sông Hương để thể hiện bằng được vẻ đẹp mang thiên tính nữ của một dòng sông Mẹ, dòng sông sinh thành văn hóa xứ sở? Cho đến khi những câu văn cuối cùng khép lại, âm vang của sự sống tử hình tượng sông Đà, sông Hương ở mỗi tác phẩm vẫn chưa thôi ngân vọng. Đó là hai hình tượng nghệ thuật được thể hiện qua hai áng văn trữ tình giàu âm hưởng sử thi và diễm lệ. Đó cũng là hai thế giới nghệ thuật vừa có sự tương đồng, gặp gỡ, vừa khác biệt, độc đáo. Ở đó, sức hấp dẫn của hình tượng nghệ thuật được tạo ra không chỉ từ vẻ đẹp vốn có của chính đối tượng được miêu tả mà còn từ cái nhìn nghệ thuật độc đáo của mỗi nhà văn - một N guyễn Tuân tài hoa, tài tử và một Hoàng Phủ Ngọc Tường sâu lắng, dịu dàng. Bởi vậy, sẽ không hề quá lời khi có ai đó quả quyết rằng văn học hiện đại Việt Nam nếu thiếu đi tuỳ bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân, “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thì người đọc hôm nay vẫn chưa thể biết đến một sông Đà, một sông Hương với vẻ đẹp đa dạng, độc đáo và gợi nhiều suy ngẫm như thế. Hai tác phẩm cũng cho thấy, dù là Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường hay bất kỳ tác giả nào khác, muốn có được những thiên tuỳ bút thành công thì luôn phải kết hợp được một cách hài hòa giữa tri thức uyên thâm với cảm xúc chân thành, sâu lắng; giữa sức hấp dẫn của đối tượng thẩm mĩ với sức hấp dẫn của chính cái tôi của tác giả... qua đó, mang đến cho hình tượng nghệ thuật một vẻ đẹp độc đáo và giàu tính nhân văn. Theo Lê Hồng Mai (Tuỳ bút từ Sông Đà của Nguyễn Tuân đến Sông Hương của Hoàng Phả Ngọc Tường, in trong Văn học 0à Tuổi trẻ, số tháng 5, năm 2021, tr. 57 - 58) 214 ======= PAGE 216 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Thực hiện yêu cầu sau: Câu 1: Cụm từ nào trong nhan đề và các đoạn mở bài, kết bài cho thấy đề tài của bài viết đã được xác định rõ ràng, cụ thể? Câu 2: Ở bài làm tham khảo trên, người viết có bao nhiêu luận điểm để phân tích sự khác biệt giữa hai tác phẩm? Câu 3: Nhận xét về cách sử dụng lí lẽ và bằng chứng của tác giả bài viết khi so sánh, đánh giá hai tác phẩm. III. Thực hành viết 1. Cho 2 đoạn trích sau “Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi Mị cũng oụt chạu ra. Trời tối lắm. Nhưng MỊ uẫn băng Ai. MỊ đuổi A Phú đã lăn, chạu, chạu xuống tới lưng đốc. Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt: ~A Phủ cho tôi đi. A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói: ~ Ở đây thì chết mất. A Phủ chợt hiểu. Người đàn bà chê chồng đó uừa cứu sốig tình. Á Phủ nói: “Đi uới tôi”. Và hai người lắng lặng đỡ nhau lao chạy xuống đốc múi.“ (Trích “Vợ chồng A Phú” — Tô Hoài) “Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. THỊ cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liên chẳng chuyện tò mì, Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: ~ Hà, ngon! Về chị ấy thấu hụt tiền thì bỏ bố. Hấn cười: ~Làm đếch gì có uợ. Nàu nói đùa chứ có 0ề uới tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng 0È. Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị uề thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, ngÌữ: 215 ======= PAGE 217 ======= thóc gạo nàu đến cái thân mình cũng chả biệt có nuôi nổi không, lại còn đèo bàng. Sau không biết nghĩ thế nào hắn tặc lưỡi tmột cái: — Chậc, kệt” (Trích “Vự nhặt” — Kim Lân) Viết đoạn văn khoảng 600 chữ nêu cảm nhận của anh/chị về hành động Mị chạy theo A Phủ và hành động thị theo Tràng về làm vợ, từ đó nhận xét tấm lòng nhân đạo của các nhà văn. 2. Hướng dẫn thực hiện Bước 01: Tìm đọc hai tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt” để nắm được cốt truyện và hệ thống các nhân vật. Bước 02: Xác định vị trí của 2 trích đoạn mà đề bài cho. (Đề không yêu cầu so sánh cả 2 tác phẩm mà chỉ đưa ra 2 chỉ tiết/2 trích đoạn từ tác phẩm. Học sinh cần đọc kĩ đề bài để có hướng phân tích tập trung, bám sát yêu cầu đề). Bước 03: Lập dàn ý so sánh hai trích đoạn trên theo kĩ năng đã được học. Gợi ý dàn ý tham khảo phần thân bài: se Giới thiệu ngắn gọn về 2 tác phẩm, 2 tác giả. e© Phân tích đoạn trích (1). © Phân tích đoạn trích (2). ©_ Nhận xét sự tương đồng và điểm khác biệt của hai trích đoạn ở tấm lòng nhân đạo của người cầm bút. © Nhận xét sự tương đồng và điểm khác biệt của hai trích đoạn ở nghệ thuật kể chuyện của mỗi văn bản. Lưu ý: Khi phân tích đoạn trích, có thể đặt những câu hỏi gợi mở để làm rõ: e Sự việc trong trích đoạn xảy ra sau những sự việc nào? Trước đó, nhân vật đã trải qua những điều gì? Theo em, vì sao nhân vật lựa chọn hành động như thế? ® Tâm lý và hành động của nhân vật trong đoạn trích bộc lộ gì về thế giới nội tâm của nhân vật? e_ Quyết định của nhân vật đã đem tới cho độc giả những suy ngẫm và thông điệp ra sao? Bước 04: Từ dàn ý đã lập, tập viết thành bài hoàn chỉnh. 216 ======= PAGE 218 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rõ bao nhiêu? E. LUYỆN TẬP L Đọc văn bản, trả lời câu hỏi MỘT LÍT NƯỚC MẮT Kito Aua (Một lít nước mất là những cuốn vở mà Aya - cô bé mắc bệnh hiểm nghèo thoái hóa tiểu não - dùng để viết nhật ký trong hơn 6 năm trời: từ năm 14 tuổi đến năm 20 tuổi, trong đó lưu lại những suy nghĩ, cảm xúc và tâm tư của cô. Từ những cuốn vở đầu tiên với nét chữ ngay ngắn đến những cuốn sổ nguệch ngoạc các con chữ do khi ấy cô sắp không thể viết được nữa, tổng cộng có 46 cuốn vở). 14 TUỔI: GIA ĐÌNH MÌNH () Bố mình 41 tuổi. Thi thoảng bố cũng hay cáu gát nhưng thực ra rất hiền. Mẹ mình 40 tuổi. Mình rất kính trọng mẹ, nhưng thái độ nghiêm túc quá mức của mẹ đôi khi khiến mình thấy e dè. Mình 14 tuổi, đang tuổi mới lớn. Cái tuổi khó khăn. Nếu phải nói một điều về tính cách mình, thì có lẽ là “mít ướt”. Mình rất đa cảm. Hơi ngố, đễ nổi cáu nhưng cũng dễ cười ngay sau đó. Em gái mình, Ako, 12 tuổi, mình và con bé hay ganh đua với nhau, cả ở nhà và ở trường. Nhưng dạo gần đây, mình bị nó xoay như chong chóng. Em trai mình 11 tuổi. Thằng bé này rất tỉnh ranh. Khá đáng gờm. Nó là em mà đôi lúc cứ tỏ ra như anh cả ấy. Nó còn ra vẻ như là bố của Koro nữa (Koro là tên em chó nhà mình). Lại một cậu em trai nữa, 10 tuổi, nó có trí tưởng tượng phong phú, nhưng đôi lúc nó khá lơ đễnh. Chưa hết, còn cả em gái út mới 2 tuổi. Tóc xoăn giống mẹ và khuôn mặt giống bố (nhất là đôi mắt, y như kim đồng hồ lúc 8h20). Rất là đáng yêu! (-) 15 TUỔI: BỆNH TẬT ẬP ĐẾN (-.) Ở trường trung học Seiryo, loại trái cây duy nhất bọn mình được thu hoạch vào mùa hè đó là quýt. Lúc mình tới nhổ cỏ đưới hàng cây, bọn con trai hùa nhau chế nhạo cách mình 17 ======= PAGE 219 ======= bước đi. “Gì thế kia, đi đứng kiểu gì vậy? Giống trẻ con mẫu giáo thế!” “Đầu gối bạn bị lệch ra ngoài à?” Bọn họ cười sằng sặc, nói toàn những điều khiến mình muốn phát điên. Tất nhiên mình lờ họ đi. Những kẻ như thế thì nhiều như cá trong đại đương vậy. Khổ sở lắm mình mới có thể kìm nén không trào nước mắt. Chẳng rõ bằng cách nào mình đã không bật khóc... Hôm nay có một chuyện chẳng vui vẻ gì. Đó là vào giờ thể dục, như mọi khi, mình thay đồ tập rồi chạy đến nơi cả lớp tập trung. “Hôm nay lớp ta sẽ chạy bộ đến công viên ở cách đây một cây số. Tại đó các em sẽ luyện tập chuyền bóng,” thầy giáo thông báo. Nghe vậy tim mình đập thình thịch. Chạy ư, chuyền bóng ư? Chịu thôi. Mình không làm được đâu. “Kito, em làm sao vậy?” Mình chỉ biết cúi đầu lặng thỉnh. Thế rồi, thầy nói tiếp; “Thế này nhé, em hãy về lớp tự học với bạn O đi.” (Bạn O vì quên mang đồng phục thể đục nên bị phạt.) Ngay tức thì, cả lớp liền ở lên. “Ôi sướng thế, được tự học cơ dấy.” Trong lòng mình giận sôi lên. Nếu nhứ thế mà sướng thì mình đổi cho các bạn nhé? Dù chỉ một ngày thôi, mình cũng muốn đổi cơ thể khác. Để các bạn hiểu được cảm giác của người không thể làm chủ cơ thể theo ý muốn. Cứ mỗi lần bước đi, mỗi lần chân chạm đất, mình đều cảm thấy sự bất ổn của cơ thể, thấy hoang mang và hổ thẹn vì không thể thực hiện điều bình thường nhất mà ai cũng có thể làm được. Cái cảm giác cơ thể không đứng vững, đôi chân không làm theo ý mình, nếu không thực sự trải qua phải chăng người ta sẽ không tài nào thấu hiểu? Dẫu cho không hoàn toàn hiểu được cảm giác của người khác, thì dù chỉ một chút thôi, ước gì mọi người hãy thử đặt bản thân vào vị trí của mình. Nhưng việc đó quả thực là rất khó. Ngay cả mình đây, chỉ từ khi trải qua chuyện này, mình bắt đầu hiểu được cảm giác của những người tàn tật. (-.) 16 TUỔI: BẮT ĐẦU CỦA NHỮNG KHỔ ĐAU (.) Ngay cả trong giấc mơ, đôi chân của mình vẫn bị tàn tật. Mình phải ngồi trên xe lăn để ra ngoài (trước đây mình thường mơ là được đi bằng hai chân). Tay phải đang mất đi sự chính xác ngay cả với những động tác thông thường. Trước 218 ======= PAGE 220 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? đây, bác sĩ Yamamoto cho mình luyện tập cả tay trái, chắc bác sĩ đã biết trước rằng tay phải của mình rồi sẽ trở nên tệ hơn. Kỳ nghỉ hè năm nay mình sẽ phải nhập viện điều trị lần hai, thể là bố mẹ dành ra một buổi để nói về tương lai của mình. Bố mẹ và mình cùng thảo luận về kế hoạch sau khi ra trường. Minh nói là muốn tham gia kỳ thi viên chức. Bố bảo rằng mình đăng ký thi cũng tốt thôi nhưng bố thấy không an tâm về sức khỏe của mình. Còn mẹ thì không tán thành và cho rằng với tình trạng của mình điều đó là không thể. Căn bệnh này đến giờ vẫn chưa biết có chữa được không, nhưng để đạt được mục tiêu mình sẽ cố hết sức. Bắt đầu vào học kỳ hai, các giáo viên bắt đầu nói nhiều về chuyện xin việc, chuyện bước ra ngoài xã hội... Tuy chẳng rõ là có đủ khả năng không, nhưng mình thấy rất háo hức với những chuyện như thế. Mình không muốn nghĩ đến chuyện phải học tiếp nữa mà chỉ muốn đi làm. Mình biết là với tình trạng hiện giờ còn lâu mình mới phù hợp để tham gia quy trình xin việc như các giáo viên thường nhắc đến. Chẳng qua mình chỉ muốn được có cảm giác bước ra xã hội như các bạn khác mà thôi. Dù sao, mình cũng còn chút thời gian để suy nghĩ thêm về vấn đề này. (..) 17 TUỔI: MÌNH KHÔNG HÁT ĐƯỢC NỮA (..) Mình bắt đầu khó phát âm những từ bắt đầu bằng chữ cái M, W, H và cả chữ N nữa. Đó là vào giờ hóa học, mình được gọi lên đọc bài. Mặc dù hiểu rõ phải phát âm ra sao nhưng mảnh không thể nào làm được. Mình có thể tạo khẩu hình chính xác, nhưng cổ họng mình không tạo thành tiếng, chỉ có một lưồng hơi phát ra mà thôi. Thế nên chẳng ai hiểu được. Dạo gần đây mình thường tập nói một mình. Trước giờ mình ngại làm thế bởi thấy cứ ngớ ngẩn thế nào đó, nhưng giờ đó là một cách tốt để luyện cho môi và cổ họng. Thế là dù có người ở bên cạnh hay không, mình vẫn cứ nói. Mình đã nghĩ đến chuyện xin ứng cử cho chức thư ký của hội học sinh. Lúc còn học lớp Năm mình đã từng giữ chức vụ này. Sẽ có hẳn một buổi diễn thuyết và tranh luận giữa các đối thủ, thế nên mình phải tập phát âm cho buổi diễn thuyết. Nào là chuyện luyện tập rồi chuyện học hành, có quá nhiều chuyện phải làm. Đầu mình cứ quay cuông như chong chóng. Trời ạ! Hồi còn học cấp I, mình từng đánh nhau với một bạn cùng lớp. Hôm đó, mình dẫn em chó Kuma đi dạo. Bạn mình và anh trai bạn ấy cũng dẫn chó ra ngoài. Xung đột bắt đầu khi bạn ấy thúc chó nhà mình ra gây sự với Kuma. 219 ======= PAGE 221 ======= “Sao bạn lại chọc phá Kuma vậy?” “Thì anh mình bảo thế.” Minh nổi giận. “Nếu anh cậu bảo cậu đi giết người thì cậu cũng bình thản mà làm à? Không phải lúc nào anh cậu cũng đúng đâu.” (Mình bắt chước những lời răn dạy của mẹ.) Nhưng cô bạn kia vẫn không ngăn chó lại. Cả bọn lao vào cãi vã. Quyết liệt đến mức không thể nào ngừng lại. Rốt cuộc thành ra đánh nhau to. Tuy bị đẩy vào vũng bùn, nhưng, mình quyết không chịu chua. Sau đó hai đứa em cũng chạy ra yếm trợ cho mình. Đúng, rồi, mình phải quyết tâm giành được một chân trong Hội Học Sinh với cùng cái ý chí đấu tranh vì chính nghĩa như hồi đó. Những tổn chương về ngôn ngữ đang dần lộ rõ. Khi nghe mình nói chuyện, đối phương sẽ phải mất rất nhiều thời gian và lòng kiên nhẫn. Có nhiều câu lúc cần phản ứng nhanh nhưng mình không kịp nói, ví dụ như lời “Xin lỗi” khi vô tình đi ngang qua ai đó. Nếu cả mủnh và đối phương không chuẩn bị sẵn tỉnh thần và những điều cần nói, thì không thể nào có được một cuộc nói chuyện như mong muốn. Thậm chí mình cũng không thể nói rành rọt những câu đơn giản như “trời hôm nay đẹp thật, những đám mây nhìn như những viên kem,” mà trước đây mình hay dùng để xen vào cho cuộc nói chuyện thêm thoải mái. Cảm giác trong lòng thực khó chịu, cực kỳ bức xúc, mình thấy bản thân thảm hại, mình thấy buồn. Và cuối cùng, những giọt nước mắt bắt đầu rơi. (.) 18 TUỔI: SỰ THẬT VỀ CĂN BỆNH CỦA MÌNH (..) Hôm nay mình cắt tóc. Nhưng mình không đám nhìn vào gương. Mình không muốn nhìn thấy bộ dạng rụt rè của mình. Nếu nhìn vào gương, cũng như mọi khi, mình sẽ thấy một nụ cười buồn tẻ và đôi mắt lờ đờ lúc nào cũng như chực nhắm tịt lại, chẳng có gì đáng để nhìn hết. Tuy nhiên, trong phòng điều trị phục hồi chức năng lại có một cái gương lớn. “Phải nhìn vào gương mới thấy được tư thế của mình chưa chuẩn ở điểm nào mà khắc phục.” Bác sĩ O đã nói vậy. Trong đầu, mình hình dung bản chân là một cô bé bình thường khỏe mạnh. Nhưng hình ảnh phản chiếu trong gương lại chẳng đẹp một chút nào. Xương sống bị cong lại kh- iến cơ thể như đang đổ về trước. Đành phải chấp nhận thôi, sự thật vẫn là sự thật. Cái hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ thoát khỏi cảnh tàn tật luôn đeo bám trong suy nghĩ, mình không thể nào mà dứt nó ra khỏi đầu. Mình muốn ít ra cũng đạt được mục tiêu rằng, nhờ 20 ======= PAGE 222 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rõ bao nhiêu? .hàm chỉ rèn luyện phục hồi chức năng một cách nghiêm túc, mình có thể làm việc gì đó mà trước đây không làm được. Mình muốn dùng ý chí để chiến thắng giới hạn của bản thân nhưng không được. Hậu quả là một gương mặt trắng bệch và cơ thể mệt mỏi rã rời. “Phải chú ý không được quá Hôm nay mình bị ngã trong nhà vệ sinh, đầu đập mạnh xuống đất. Tuy không bị sưng nhưng đầu mình đau kinh khủng. Mình cứ tưởng như sắp chết vậy. Ngoài trời, ánh chớp giật liên hồi, sau đó là một loạt tiếng sấm. Mình đi xe lăn đến chỗ điện thoại công cộng đưới hành lang và gọi về nhà. Mẹ là người bắt máy. “Aya, con khỏe chứ. Chủ nhật này mẹ vào thăm con. Còn ba ngày nữa thôi, con có muốn mẹ mua thêm gì không? Quần áo cứ để mẹ giặt cho nhé, bên đó đang có sấm à?” Mình ậm ử trả lời vâng ạ. Giờ mà chết đi mình cũng chẳng phiền lòng. (-.) 19 TUỔI: CÓ LỄ KHÔNG CÒN ĐƯỢC LÂU NỮA (...) “Con mà không ngoan thì về sau sẽ bị như thế đấy.” Một cô khoảng ba chục tuổi mặc đồ bệnh nhân đã nói thế với con trai khi thấy mình loạng choạng bấu lấy mẹ vì suýt bị té trong nhà vệ sinh bệnh viện. Hôm đó mẹ con mình đến bệnh viện kiểm tra. Những lời nói của cô ta khiến mình buồn và tủi thẹn vỗ cùng. “Nếu cứ giáo dục con theo kiểu đó, để sau này đến lúc về già cơ thể trở nên yếu ớt, cô ta sẽ nhận ra mình đã dạy con không đúng cách, những lời đó sẽ phản lại chính cô ta.” Mẹ an ủi mình như thế. Những chuyện như thế có lẽ không thể tránh được. Khi trẻ nhỏ gặp những gì có vẻ khác lạ, chúng sẽ thấy tò mò và nhìn chằm chằm. Chẳng thể trách chúng. Nhưng đây là lần đầu tiền mình bị một người lớn đem ra làm ví dụ để chỉ đạy con cái. Kể ra cũng thực cay đẳng. Ban ngày chỉ có mỗi một mình ở nhà nên rất buồn, mọi người trong nhà thấy thế bèn kiếm cho mình một em mèo. Em mèo rất thân người, hay rúc vào trong chăn hoặc bàn sưởi cùng với mình. Em mèo còn nhảy lên chân mình ngồi, trông thật dễ thương làm sao. Rika muốn ôm em mèo, nhưng lại ôm chặt quá, em mèo hoảng sợ đòi bỏ chạy. Rika bèn kéo đuôi mèo, cố đặt lên đùi mình, nhưng dù thế nào em mèo cũng phản ứng lại quyết liệt. Dần đần Rika không thích chơi nữa. Cuối cùng con bé nổi giận và đánh em mèo. “Rika, không được đánh em mèo!” Mình la lên. Con bé nghiến răng và lần này nó quay ra đánh mình. ======= PAGE 223 ======= “Em dám đánh chị à...” Mình ra vẻ nổi giận đùng dùng. “Chị Aya nổi giận rồi, nổi giận rồi!” Rika nhại lại. “Thôi chị không chơi nữa.” Lúc sau mình kể lại cho mẹ nghe chuyện đó. Mình thì đã 19 tuổi 5 tháng, thế mà lại đi cự nự với đứa em gái mới được 5 tuổi 7 tháng. Cuộc sống của một bà cụ (mình). Mình cứ như một bà cụ già: không có sự tươi trẻ, không có năng lượng, không có lý tưởng cũng như mục tiêu sống... Chẳng có gì ngoài một cơ thể đang dần tàn rạ. Mình phải sống vì cái gì cơ chứ? Ngược lại với tâm trạng đó, mình vẫn khao khát được sống. Những điều mình thích bao gồm: ăn uống, đọc sách và viết, Không rõ những bạn cùng 19 tuổi khác thì thích gì nhỉ? Lần khám trước, bác sĩ đã dặn là sau tết mình nên đi khám lại. Nhưng mình sợ rằng chỉ toàn nghe những câu kiểu như: “Bệnh tình của cháu ngày càng trầm trọng, không có dấu hiệu phục hồi nào.” Nghĩ đến chuyện đó mình chỉ biết khóc rưng rức. Không lẽ đời mình cứ chui rúc mãi trong bóng đêm như thế này? Thật đáng buồn, 19 tuổi thì là gì cơ chứ? 20 tuổi thì là gì cơ chứ? Chẳng có con đường nào mở ra cho mình cả. Khi mình khóc, người xung quanh sẽ thấy nặng nề. Khi mình khóc, mũi mình bị nghẹt, đầu đau như búa bổ và người mệt lử. Vậy tại sao mình lại khóc cơ chứ? Mình chẳng có lấy một công việc hay sở thích, thậm chí là mục tiêu muốn theo đuổi cho đến cùng. Ngay cả chuyện yêu một ai đó hay tự đi bằng đôi chân của mình cũng không thể được, mình chỉ biết khóc thảm thiết mà thôi. Rồi mình nhìn vào khuôn mặt ướt nước mắt của mình trong gương và hỏi: Tại sao mày lại khóc cơ chứ? Hôm nay bữa trưa của mình là mì ăn liền: “Cho nước nóng vào, đợi chừng ba phút.” Lúc ăn mì mà không húp nước cẩn thận không chừng sẽ bị sặc. Chuyện này không đơn giản chút nào. Bởi nếu bị sặc lúc không có ai ở nhà thì vô cùng nguy hiểm. Chị Chika, học trên khóa mình ở trường nội trú, từ bé đã bị bại liệt nên hay bị chảy nước dãi, nhưng chị ấy vẫn có thể uống nước từ cốc như bình thường, Bạn Ikeguchi thì sử dụng ống hút. Nhưng còn mình, phải uống như thế nào để không bị rớt nước ra ngoài? Phải chăng vì các cơ dùng để nuốt thức ăn trong thực quản của mình đều bị suy yếu. Hôm nay khi uống nước mình tập trung hết sức. Mình nhấp từng ngụm từng ngụm nhỏ, cứ như khi người ta uống rượu ấy. Thế là mình không bị sặc dù chỉ một lần. Làm được rồi, mình mừng quái 22 ======= PAGE 224 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rõ bao nhiêu? Còn có một chuyện khác cũng khiến mình vui sướng. Từ trước cho đến nay, điều hiển nhiên nhất mà những người bình thường đều làm được thì mình lại không thể. Thực xấu hố quá, đó là chuyện mình không đi vệ sinh kịp nên phải thay quần lót nhiều lần. Mình nhận ra nguyên nhân của vấn đề rồi. Bình thường mình chỉ đi vệ sinh khi thấy có nhu cầu, nhưng mình đi chuyển quá chậm nên không kịp vào nhà vệ sinh. Thế là mình quyết định tại một số thời điểm nhất định trong ngày, mình sẽ vào nhà vệ sinh. Vậy là có tác dụng! Giờ mình có thể tự xoay xở mà không e ngại sự cố nào! Mình rất vui sướng và muốn kể chuyện này với ai đó. Nhưng nghỉ lại thì thấy đây đâu phải chuyện nên đi khoe với người khác, nên mình đành một mình tận hưởng thành công này vậy. (-) 20 TUỔI: MÌNH KHÔNG THỂ CHỊU THUA CĂN BỆNH QUÁI ÁC NÀY (~.) Mười năm sau mình sẽ như thế nào... Chỉ nghĩ đến đó thôi cũng đủ sợ rồi. Dù sao cũng phải sống cho thật tốt những giây phát hiện tại. Tất cả mọi nỗ lực hiện giờ đều là vì cuộc sống của mình mà thôi. Mặc dù còn trẻ nhưng cơ thể mình không cử động được như bình thường, dễ nổi cáu và thiếu kiên nhẫn. Nhưng như thế là bởi mình bị bệnh, chỉ còn cách cố mà hồi phục thôi. Có một người khuyên mình đừng viết quá nhiều. Cảm ơn nhiều. Mình chụm tay lại tỏ vẻ hàm ơn. Trên giường bệnh, những suy nghĩ của mình... (Tới đoạn này chữ của Aya trở nên không thể đọc được nữa.) Mình hiểu rằng kinh nguyệt - dấu hiệu cho thấy mình là một người phụ nữ - sẽ bị chậm khi cơ thể trở nên suy nhược. Cách đây sáu tháng khi có lại kinh, mình đã nghĩ đó là dấu hiệu phục hồi của cơ thể. Bên ngoài bầu trời trong xanh, chỉ mỗi mình mình trong phòng bệnh, với chút hy vọng nhỏ nhoi. (-.) VỀ AYA: CÔ BÉ Đà DŨNG CẢM CHỐNG LẠI VỚI BỆNH TẬT (Bác sĩ Yamamoto Hiroko - Trợ lý giáo sư Giờ là Giáo sư Khoa Thần kinh - Đại học Y Eujita) (-) ======= PAGE 225 ======= Một hôm, sau khi chẩn bệnh, tôi đi bộ dọc hành lang và thấy Aya từ trong phòng bệnh tiến ra, có vẻ như cô bé đang đợi tôi. Aya ngồi trên xe lăn, nép bên mép tường hơi tối có treo bình chống cháy. Thấy tôi cô bé liền cất tiếng hỏi: “Bác... sĩ... cháu... có... thể... kết... hôn... được... không?” Tôi trả lời theo phản xạ: “Không thể được đâu, Aya.” Ngay sau đó tôi Hền nghĩ thầm. Sao đột nhiên cô bé lại hỏi vậy? Hay là thích anh chàng nào đó rồi. Có phải cái cậu sinh viên hay đến thăm cô bé? Bỗng cảm thấy mình cần chú ý lắng nghe Aya, tôi bèn ngồi xuống ngang tầm xe lăn và nhìn vào khuôn mặt cô bé. Tôi ngỡ ngàng trước vẻ ngạc nhiên trong mắt cô bé. Rõ ràng là Aya rất sốc trước câu trả lời thắng thừng của tôi. Giờ đây Aya đã rơi vào trạng thái phải vật lộn với cả những điều nhỏ nhất, phải cố gắng hết sức trước những gì xảy ra quanh mình, còn căn bệnh thì mỗi lúc một tệ hơn. Tôi cứ ngỡ rằng chuyện kết hôn nói chung chẳng bao giờ nảy sinh trong đầu Aya, chứ đừng nói đến chuyện cô bé thấy trăn trở về việc mình có thể kết hôn được không. Nhưng giờ tôi đã nhận ra, hiện thực không phải như vậy: cô bé đang cao thêm, ngực cũng phát triển, chưa kể tháng nào cũng có kỳ đều đặn. Tôi đang chứng kiến giai đoạn Aya phát triển từ một cô bé thành phụ nữ, ngay cả chính Aya cũng có thể nhận ra. Vậy mà sao tôi lại mặc định rằng Aya không bao giờ nghĩ đến việc sẽ kết hôn và xây dựng gia đình? Tôi tự thấy xấu hổ trước câu trả lời của mình. Dù đã quen biết với Aya lâu như vậy, ngẫm lại tôi thấy mình vẫn chưa hiểu gì về cô bé. Tôi không khỏi tự vấn lại chính mình. Đó là phản ứng ngỡ ngàng nhất từ phía bệnh nhân mà tôi từng được chứng kiến, Tôi sẽ không bao giờ quên đôi mắt ngạc nhiên và vẻ mặt run rẩy của Aya khi ấy. Aya hỏi lại tôi. “Tại... sao... lại... như... vậy... hả... bác... sĩ? Vì... em... bé... cháu... sinh... ra... cũng... sẽ... bị... bệnh... phải... không?” Tôi cố làm ra vẻ cười đùa nói. “Phải có đối tượng kết hôn thì mới kết hôn được chứ. Nếu cháu không tìm được người biết thông cảm và chủa sẻ với cháu về căn bệnh này thì làm sao mà kết hôn được. Aya đang để ý đến ai đúng không?” Có lẽ câu trả lời đó hơi tàn nhẫn, nhưng tôi nghĩ rằng không nên đáp bằng một câu nói mơ hồ, để Aya ôm cái mơ mộng hão huyền rốt cuộc cũng sẽ tan biến nhanh chóng. Mắt tôi ướt nước khi Aya lắc đầu trả lời: “Không ạ.” Tôi không biết mình hay Aya đã khóc trước. Một hồi lâu, cơ thể tôi cứng đờ không thể cử động. Vài ngày sau đó, bên tai tôi vẫn còn vang lên câu hỏi của Aya: “Bác... sĩ... cháu... có... thể... kết... hôn... được... không?” Cậu sinh viên thực tập thường hay thăm bệnh Aya đần đần cũng không thấy ghé qua nữa. Đoán chừng là vì bận học. Còn Aya đồn hết sức tập trung vào các bài tập phục hồi 224 ======= PAGE 226 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? chức năng. Cô bé vẫn luôn tươi tỉnh khi ở phòng bệnh. Vào giai đoạn cuối thời kỳ nhập viện, cứ mỗi khi ngồi dậy Aya đều thấy đau đầu và buồn nôn, đó là những triệu chứng của hạ huyết áp ở tư thế đứng (orthostatic hypoten- sion). Một bệnh nhân cùng phòng với Aya đột ngột qua đời. Trải nghiệm đó khiến tâm lý hoang mang và sợ hãi cái chết càng thêm ám ảnh cô bé. Vài ngày tiếp Aya vẫn trong tâm trạng u ám. Một lần nữa, tôi lại phải giải thích về quá trình tiến triển của căn bệnh, rằng còn lâu nữa thì cái chết mới đến. Aya gật đầu, và dần tươi tỉnh trở lại. Tuy nhiên, về sau tình trạng của Aya ngày một cần tới sự trợ giúp của người thân nhiều hơn, gia đình cô bé chuyển Aya đến bệnh viện cho phép thuê điều dưỡng viên. Thi thoảng tôi cũng tới đó thăm bệnh. Sau đó Aya được chuyển đến bệnh viện gần nhà ở Toyohashi. Tôi vẫn trao đổi qua thư với mẹ Aya trong suốt hai năm không gặp, bà cập nhật tình hình cho tôi rất đều đặn. Mẹ Aya luôn ngóng chờ lời tư vấn của tôi và trường đại học nơi tôi dạy cũng cử một bác sĩ trẻ có năng lực đến tham gia điều trị và theo dõi tình hình hiện thời của cô bé. Bởi thế, nên tôi nắm được khá rõ tình trạng của Aya. Theo như mẹ Aya, dù chuyển đến bệnh viện nào Aya vẫn được khen là hiền và ngoan ngoãn, điều dưỡng viên mới rất yêu quý và tận tình chăm sóc Aya. Mỗi lần gặp những bệnh nhân đang chán chường vì căn bệnh Thoái hóa tiểu não, tôi đều tự hào kể về chuyện của Aya nhằm khích lệ họ. Đến gần đây tôi nhận ra rặng, người được khích lệ tỉnh thần nhiều nhất không biết chừng lại chính là bản thân tôi. (~) (Kito Aya, Một lít nước mắt (TRẦN TRỌNG ĐỨC dịch), NXB Hội Nhà văn Nhã Nam, Hà Nội, 2022) ======= PAGE 227 ======= 1. Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm Kito Aya là một cô gái người Nhật mắc căn bệnh thoái hoá tiểu não khi mới chỉ 15 tuổi. Nhưng bằng nỗ lực phi thường, cô vẫn cố gắng sống mạnh mẽ và qua đời vào năm 25 tuổi. : Một lít nước mắt là những trang nhật kí được \ Kito Aya ghi lại về hành trình đấu tranh với K/“ nghịch cảnh. Những trang viết này vốn do bác sĩ chăm sóc cô đề xuất để tiện việc theo dõi tiến trình của căn bệnh - được cô viết cho đến khi cơ thể cô bị liệt hoàn toàn, sau đó được xuất bản không lâu trước khi Aya qua đời. Cuốn nhật kí đã được nhà sản xuất Kashikawa Satoko chuyển thể thành bộ phim truyền hình cùng tên, công chiếu năm 2005. Tình bạn, tình yêu tuổi học trò và tình cảm gia đình, từng khoảnh khắc trong “Một lít nước mắt” đều khiến người đọc, người xem phải rưng rưng xúc động. 2. Trả lời các câu hỏi sau: Câu 1: Tính phi hư cấu của văn bản trên được thể hiện ở những yếu tố nào? Câu 2: Phân tích tác dụng của việc sử dụng kết hợp thủ pháp miêu tả với trần thuật trong đoạn trích “19 tuổi: Có lẽ không còn được lâu nữa”. Câu 3: Chỉ tiết nào trong đoạn trích Một lít nước mắt để lại ấn tượng đặc biệt đối với em? Vì sao? Câu 4: Thái độ của Aya khi đối mặt với căn bệnh nan y gợi cho em suy nghĩ gì? Điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống của em? Câu 5: Em học hỏi được điều gì từ tác giả nhật kí? HH. Đọc, nghe, xem: Nâng cao cảm thụ Với chủ đề nàu, em có thể tìm hiểu oề những bộ phim dựa trên sự kiện có thật hoặc dựa trên nhật kí, hồi kí để hiểu rõ hơn oề “sự thật trên trang kí” nha. 22 ======= PAGE 228 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? 1. Bộ phim “Bộ ba ưu việt” 2. Bộ phim “Đừng đốt” “Bộ ba ưu việt” (Tên Tiếng Anh: Hidden Figure) là một bộ phim dựa trên câu chuyện có thật về ba cô gái người Mỹ da màu làm việc tại trụ sở Nasa, khi chế độ phân biệt chủng tộc ở Mỹ ngày càng lên đến cao trào. Bộ phim thể hiện rõ nét sự tài năng, xuất chúng của những người phụ nữ, cũng như nghị lực của họ trong việc đấu tranh chống lại nạn phân biệt hà khắc để khẳng định bản thân mình. “Đừng đốt” (tựa Anh: Don? Burn) là một bộ phim theo dòng chính kịch lịch sử được sản xuất vào năm 2009 do Đặng Nhật Minh đạo diễn và viết kịch bản. Phim được tạo dựng dựa trên hai quyển nhật ký nổi tiếng của nữ bác sĩ — liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, được cô viết từ ngày 8 tháng 4 năm 1968 đến ngày 20 tháng 6 năm 1970 (trước khi cô hi sinh 2 ngày). 227 ======= PAGE 229 ======= 3. Bộ phim “The Social Network” The Social Nettoork (Mạng Xã hội) là một bộ phim tâm lý đo Mỹ sản xuất năm 2010, nói về sự hình thành của mạng xã hội Facebook. Kịch bản đ nà NN ành của mạng xã hội Facebook. Kịch bản được G£T 1O F8IENDS “The Accidental Billionaires” của Ben Mezrich và AFEW viết bởi biên kịch Aaron Sorkin dựa trên quyển sách đạo diễn bởi David Fincher, với sự tham gia diễn ENEMIES xuất của Jesse Eisenberg trong vai Mark Zuckerberg, cùng với Andrew Garfield và Justin Timberlake. Ở giải Oscar lần thứ 83, phim giành ba giải Biên kịch, Dựng phim uà Nhạc nền xuất sắc nhất. ) II. Luyện tập viết Trong nhật kí “Mãi mãi tuổi hai mươi”, Nguyễn Văn Thạc tự đặt ra cho mình câu hỏi: “Mình bắt đầu sống có trách nhiệm từ đâu, từ lúc nào?”. Em hãy đưa ra câu trả lời của bản thân bằng một bài văn khoảng 600 chữ. ======= PAGE 230 ======= GỌI Ý TRA LỎI CÁC CÂU HOI ======= PAGE 231 ======= GỢI Ý TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI Trong phần này, nhóm biên soạn của Học Văn Cô Sương Mai xin được đưa ra những gơi mở, định hướng tham khảo với bộ câu hỏi ở từng chủ đề. Với những câu hỏi mở (câu hỏi về cảm nhận, góc nhìn, suy nghĩ của người đọc), đây sẽ không phải đáp án chính xác duy nhất, Các bạn hoàn toàn có thể có những suy tư của riêng mình, miễn là câu trả lời áp dụng các kĩ năng + trỉ thức ngữ văn cần thiết, phù hợp. Bạn có thể đối chiếu sự lựa chọn của bản thân với phần gợi ý này để mở ra những cánh cửa mới thú vị trong quá trình học Văn nhé! BÀI 01: VĂN HỌC VÀ CUỘC SỐNG B. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN BẢN 1 CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Trích) Nguyễn Minh Châu SAU KHI ĐỌC Câu 1: Câu chuyện được kể từ điểm nhìn của ai? Ý nghĩa của việc lựa chọn điểm nhìn này. *Gợi ý: 1. Câu chuyện được kể từ điểm nhìn của nhân vật Phùng. 2.Ý nghĩa của việc lựa chọn điểm nhìn: ® .. Phùng là người ngoài cuộc, tái hiện lại câu chuyện của người trong cuộc (gia đình hàng chài) > đem lại sự khách quan, tin cậy. s Phùng là một phóng viên, một nhiếp ảnh gia với trái tim yêu cái đẹp và lòng khao khát khám phá - sáng tạo nghệ thuật + Có điểm tương đồng nhất định với nhà văn Nguyễn Minh Châu (cũng từng là một nhà văn mặc áo lính, và sau chiến tranh, cũng dùng văn học - nghệ thuật để bày tỏ tiếng nói của bản thân với cuộc đời và về cuộc đời). Câu 2: Tìm nguyên nhân dẫn tới tình trạng bạo lực của gia đình hàng chải. Theo em, tại sao người đàn bà vẫn chấp nhận sống chung với một gã đàn ông vũ phụ, bạo hành chính 230 ======= PAGE 232 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? ¬nh? *Gợi ý: 1. Nguyễn nhân dẫn tới tình trạng bạo lực của gia đình hàng chài: e . Nguyên nhân trực tiếp: do thói vũ phu của người đàn ông. + _ Nguyên nhân sâu xa: do tình trạng đói nghèo, là đời sống bấp bênh kéo dài lê thê trong cuộc sống của gia đình hàng chài. Chính điều này đã gây nên tâm trạng u uất, tạo nên tâm lí bế tắc của người đàn ông và không biết làm sao để giải tỏa những điều ẩn ức ấy, nên trút sự giận dữ, buồn bực lên đầu vợ con mình. > Bị kịch của những người lao động nghèo 2. Người đàn bà vẫn chấp nhận sống chung với một gã đàn ông vũ phu, bạo hành chính mình vì: s Vẻ đẹp của người đàn bà: Sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời: Vì hiểu rõ những khó khăn nếu phải một mình lênh đênh trên sóng nước và lo cho lũ con, nên bà và những người phụ nữ hàng chài khác thà chấp nhận hy sinh một điều gì đó, chịu đựng một thói quen xấu nào đó để trút bớt áp lực cho chồng, còn hơn là sống “không có đàn ông”. Hiểu chồng và thương chồng: bề ngoài của lão có thể thô kệch, hung hãn nhưng bản chất lại hiền lành. Chỉ vì lão khốn khổ, bế tắc nên mới phải ra tay đánh vợ để giải tỏa những áp bức đè nén. Giàu đức hy sinh: Tất cả nỗi niềm của bà đều chỉ xoay quanh gia đình, đều chỉ vì chồng, vì con. Với bà, sự hiện điện của người đàn ông Ấy trên chiếc thuyền đã là một hạnh phúc, dẫu cho hạnh phúc ấy có khác thường, có kì dị, có méo mó đến thế nào. Với bà, chỉ cần các con được ăn no là trái tim bà đủ đầy... chỉ cần được ngắm các con ăn là đã hạnh phúc. e __ Những nghịch lí của cuộc đời: o_ Người ta không thể nào để dàng dứt bỏ một thói quen, một tập quán ổn định để kiếm m một sự thay đổi. o_ Con người thời hậu chiến mang nặng cảm thức hoài nghỉ. Họ sợ một sự đổi thay, hay vì họ sợ rằng sau khi thay đổi, cuộc sống của họ còn khủng hoảng và khó thích nghi hơn cả đương tại. Câu 3: Phân tích sự biến đổi trong góc nhìn của Phùng qua hai tình huống nhận thức. *Gợi ý: 21 ======= PAGE 233 ======= Hai tình huống nhận thức: Tình huống 1: Phùng chụp được bức ảnh buổi sớm có sương sau nhiều ngày phục kích Phát hiện 1: Bức tranh thiên nhiên tuyệt bích và hoàn mỹ (giản dị và toàn bích) ø choáng ngợp, xúc động > Cái đẹp = đạo đức. Phát hiện 2: Bức tranh cuộc khốc (bạo hành tàn nhẫn, độc ác) ø kinh ngạc, đau đớn > Đằng sau cái đẹp ẩn chứa sự méo mó, vỡ vụn. Tình huống 2: Tình huống ở tòa án huyện: e Lúc đầu: Mục đích của Phùng và Đấu là mời người đàn bà tới, thuyết phục bà bỏ chồng > muốn thay đổi suy nghĩ và nhận thức của mụ e . Lúc sau: Chính Phùng và Đẩu mới người được thay đổi nhận thức + Sự biến đổi góc nhìn của Phùng: » Nhận thức về cuộc đời: LÔ Cuộc sống thời hậu chiến ngổn ngang, nghèo khổ, lạc hậu. ° Cuộc sống luôn tồn tại những nghịch lý. « Nhận thức về con người: o Bi kịch của cuộc đời con người thời hậu o Đẳng sau những bi kịch là vẻ đẹp tâm hồn « __ Nhận thức về trách nhiệm của người nghệ sĩ: o Sứ mệnh của người nghệ sĩ trước cuộc o Thay đổi cái nhìn về cuộc đời và con người Câu 4: Có ý kiến cho rằng: “Thằng bé Phác đáng thương hơn đáng trách”. Em có đồng ý với ý kiến đó hay không? Tại sao? Học sinh có thể lựa chọn trả lời theo quan điểm của bản thân: đồng ý/không đồng ý. Câu trả lời cần được lý giải phù hợp, có sức thuyết phục *Gợi ý: Em đồng ý với ý kiến: “Thằng bé Phác đáng thương hơn đáng trách”. Vì: Đáng trách: Hành động con đánh cha là trái với luân thường đạo lý Đáng thương: 232 ======= PAGE 234 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? s_ Là nạn nhân của một gia đình nghèo về vật chất và vụn vỡ về tỉnh thần (gia đình khốn khó, bố thì đánh đập mẹ thường xuyên, bản thân Phác còn bị gửi lên với ông ngoại...). Nếu như người đàn ông và người đàn bà hàng chài chủ động “thỏa hiệp” với bạo lực gia đình thì thằng bé chỉ tiếp nhận câu chuyện xấu xí, bi thương ấy một cách bị động; để lại nhiều vết thương khó lành và những ám ảnh tâm lý. » _ Rất yêu thương mẹ - khao khát bảo vệ mẹ; đây là một tình cảm trong lành và đáng quý. se Nhìn cuộc đời một cách rành mạch đen trắng rõ ràng, không thể hiểu những sự phức tạp của cuộc đời, vì thế không chấp nhận được sự “thỏa hiệp” kì lạ của phụ huynh mình. > Cậu bé Phác là hiện thân của bi kịch nối tiếp bi kịch, đau thương chồng chất đau thương, một tuổi thơ chứa đầy ẩn ức khi phải chứng kiến một cuộc hôn nhân không hạnh phúc từ cha mẹ và dần dần sa vào vết xe đổ của người cha vũ phu. Câu 5: Anh/chị cảm nhận thế nào về ấn tượng lạ lùng của Phùng về bức ảnh ở cuối câu chuyện? *Ggi ý: e _ Ấn tượng của Phùng thật lạ: bức ảnh đen trắng nhưng Phùng thấy màu sắc, bức ảnh tĩnh nhưng Phùng hình dung được sự chuyển động. s_ Bóng dáng người đàn bà chỉ thực sự hiện lên khí nghệ sĩ Phùng “nhìn lâu hơn”, lúc đó không phải là ảnh hiện bình thường, đễ thấy; chỉ những người nào thực sự nhìn sâu, nhìn xa mới thấy được. ©_ Bóng dáng người đàn bà không đứng yên, bất động như một bức tượng được đúc sẵn - một sự đóng khung số phận. Bà đang sải những bước chậm rãi, chắc nịch trên mặt đất. Những bước đi ấy chứng minh một điều rằng cuộc đời vẫn tiếp diễn và con người ta vẫn phải sống, dù số phận có nghiệt ngã với mình. Câu 6: Hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích chức năng nhận thức của văn học sau khi đọc truyện ngắn trên. *Gợi ý: se Nhận thức về đời sống tỉnh thần sâu kín và số phận cá nhân của con người: Nguyễn Minh Châu đã bản lĩnh đi sâu vào những cuộc đời chồng chéo bị kịch - không phải đế tránh né, không phải để tô hông hiện thực mà để nhìn trực điện, cảm thông với họ; từ ======= PAGE 235 ======= Kí đó độc giả nhận ra được đẳng sau những cuộc đời méo mó, nhiều “vết rạn” là bao vẻ đẹp khuất lấp thắm sâu bên trong thế giới tâm hồn của người dân thời hậu chiến. e - Tự nhận thức về bản thân mình; đem đến cho ta cơ hội nhìn nhận và tự kiểm điểm chính mình: Con người không thể thấu trọn mọi dang đở của cuộc đời, chính vì vậy thông qua truyện ngắn, độc giả có thể mở rộng góc nhìn về những thân phận khốn cùng, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Từ đó, mỗi độc giả nhìn nhận lại bản thân trên hành trình tự hoàn thiện mình. Câu 7: Qua tác phẩm, anh/chị hiểu thế nào về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời? Người nghệ sĩ có sứ mệnh như thế nào trên chặng đường sáng tác của mình? *Gợi ý: 1. Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: « Nghệ thuật không thể xa cách với hiện thực nhọc nhẳn, cơ cực của con người. Nghệ thuật phải đành ưu tiên trước hết cho con người, phải góp phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực. » Nghệ thuật và cuộc sống không phải là một, nghệ thuật và cuộc sống không bao giờ trùng khít lên nhau. Mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật là mối quan hệ biện chứng, trong nghệ thuật có chân lí cuộc đời và trong cuộc đời có chân lí của nghệ thuật 2. Sứ mệnh của người nghệ sĩ trên chặng đường sáng tác của mình: s . Cần nuôi dưỡng sự bản lĩnh đám nủn trực điện, nhìn sâu vào đời sống để phát hiện những tồn tại vắng mặt, những vẻ đẹp khuất lấp. «Cần phải liên tục truy vấn, đối thoại, đặt ra những câu hỏi và kiếm tìm những câu trả lời. e _ Phải chiến thắng chính mình, vượt lên trên những hạn hẹp và nông nổi để viết bằng trái tìm, viết bằng dũng khí. VĂN BẢN 2 NGƯỜI ĐÀN BÀ NGỒI ĐAN Ý Nhỉ Câu 1: Bài thơ được viết theo thể thơ nào? Việc lựa chọn thể thơ này có tác dụng gì đối với việc thể cảm xúc của chủ thể trữ tình? 24 ======= PAGE 236 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? *Gợiý: 1. Bài thơ được viết theo thể tự do. 2. Tác dụng của thể thơ trong việc thể hiện cảm xúc của chủ thể trữ tình: e _ Có khả năng bao quát lớn, mang tính hiện đại. ø Cónhững câu thơ đài được ngắt làm nhiều dòng với số chữ nhiều ít khác nhau tạo nên nhiều loại nhịp điệu theo ý muốn; không cần vần mà nhịp điệu vẫn tỉnh tế, truyền tải tốt tâm hồn, cảm xúc của nhà thơ. + Bộc lộ cảm xúc vô định, mệnh mang chảy tràn, vắt dài từ câu thơ này sang câu thơ khác, phù hợp với không gian trầm buồn, hiu quạnh, cô đơn. Câu 2: Người đàn bà ngồi đan hiện lên trong không gian và thời gian như thế nào? “Gợi ý: 1. Không gian: bên cửa sổ Đây là góc nhìn miêu tả từ bên ngoài vào bên trong. Bên ngoài ô cửa sổ đó chính là cuộc sống. Ở đẳng sau một khung cửa sổ, con người ta như đang ở bên lề cuộc sống. Cuộc sống được nhìn qua khung cửa sổ là cuộc sống đã được đóng khung, mặc đù nó chuyển động. 2. Thời gian: chiều lạnh Khoảnh khắc buổi chiều chậm trôi ấy thường gây cho con người ta sự u tịch huyền bí. Ờ đây, Ý Nhỉ còn khắc hoạ buổi chiều lạnh, gơi đến sự hiu quạnh, lạnh lẽo. Không gian xung quanh con người chừng như cũng ngưng đọng trong im lặng và cả (có lẽ) bóng tối tủa buổi chiều. Người đàn bà ngồi đan hiện lên một mình bên những cuộn len cùng bao ngốn ngang khó tỏ bày, lí giải rạch ròi. + Không gian và thời gian nghệ thuật góp phần khắc hoạ nhân vật trữ tình giữa những ranh giới mơ hồ của cảm xúc. Câu 3: Tìm những tính từ miêu tả tâm trạng của người đàn bà ngồi đan; từ đó, nhận xét về nghệ thuật khắc họa nhân vật trong thơ của Ý Nhi. *Gợi ý: 1. Những tính từ miêu tả tâm trạng của người đàn bà ngồi đan: nhẫn nại, vội vã, giữ kín đau thương, hạnh phúc, tràn đầy niềm tin, ngờ vực. 2. Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật trong thơ của Ý Nhi: - Thay vì thổ lộ trực tiếp cảm xúc, suy nghĩ hoặc đưa ra nhận xét mang tính “chốt hạ” về 5 ======= PAGE 237 ======= đổi tượng, tác giả chỉ liên tiếp đặt ra những câu hỏi đầy hồ nghỉ. - Bằng cách đặt ra những câu hỏi/ tình huống giả định trái ngược (đang! hay là), tác giả đã tạo nên vô số hình ảnh chuyển động mờ chồng lên người đàn bà ngồi đan: Chuyển động của hình thể, chuyển động của tâm trạng, suy tưởng. Việc chọn điểm nhìn mô tả từ bên ngoài cho phép nhà thơ có được khoảng gián cách cần thiết với cảm xúc chủ quan và tập trung hơn vào việc mô tả, suy ngẫm. Điều này khiến Người đàn bà ngồi đan hiện lên với đủ đặc điểm hình thể, diện mạo, hành động... mà dường như vẫn “bảo lưu” nguyên vẹn nỗi u uẩn, riềm cô độc. Câu 4: Người đàn bà ngồi đan “Không thở dài”/ Không mỉm cười”/ “Không một lần nào ngẩng lên nhìn”. Theo em, giữa những cái “không” đó thì người đàn bà ngồi đan “có” điều gì? *Gợi ý: Giữa những cái “không” đó thì người đàn bà ngồi đan “có”: « Một thế giới nội tâm riêng với những cảm xúc riêng được bảo toàn, không dễ đoản, không phanh phui. s ._ Một vẻ đẹp mang tính cá nhân, riêng tư, không phải là một tượng đài lịch sử để mọi người chiêm bái và ngưỡng vọng; cũng không phải là một hình tượng đại diện cho bao kiếp người. Câu 5: Nếu kể cả nhan đề của tác phẩm, hình ảnh “Người đàn bà ngồi đan” được lặp lại tới ba lần. Theo em, tác dụng của nghệ thuật này là gì? *Gợi ý: Tác dụng của nghệ thuật điệp: » __ Thể hiện sự “giày vò”, “sự xao xác” không yên trong tâm hồn nhà thơ đa cảm mà nặng tư duy phân tích này. e _ Thể hiện những tình cảm phong phú, đa đạng nhưng cũng rất phức tạp của đời sống con người: bâng khuâng vô tận; sự rối ren, chật hẹp không gì “gỡ ra được” ngoài những câu thơ... s . Tạo nên tính nhạc trong thơ. + Phép điệp khiến số lượng từ ngữ ít đi nhưng dung lượng hình ảnh, cảm xúc, nhịp điệu và tư duy tăng lên gấp bội. Người đọc có cảm giác nhà thơ đang đánh đố trỉ giác của mình, đòi hỏi mình phải kiếm tìm gì đó sau những câu chữ giống nhau mà lại bất cân bằng 2% ======= PAGE 238 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? rong nhận thức. Câu 6: Chức năng của văn học được thể hiện như thế nào qua bài thơ trên? *Gợi ý: 1. Chức năng nhận thức: nhiều khi, vì quá tự tin, ta thường thâu tóm cuộc đời vào một số quy luật chung nhất, và bằng những kết luận như đỉnh đóng cột, ta tin chắc rằng đã nắm được bản chất của nó trong lòng bàn tay. Người đàn bà ngồi đan là một lời nhắc khẽ, rằng thông minh thôi là chưa đủ. Cuộc đời không chỉ là những quy luật giản ước hay riềm tin được đóng gói và những gì ta nhìn không hẳn là những gì ta thấy. Chỉ khi cố gắng bước ra khỏi định kiến và thói quen đơn giản hóa, ta mới có thể nhìn thấy một hiện thực khác, bề bộn, đầy nghịch lý và không dễ giản ước. Nhưng có lẽ, đó mới chính là đời sống của con người. 2. Chức năng thẩm mĩ: Đọc Người đàn bà ngồi đan, người đọc có thể lắng nghe đời sống từ những rung động sâu kín, lặng lẽ, phát hiện những vẻ đẹp tuyệt vời nở hoa ngay trên vực thẳm của nỗi lo âu, sự bất an, ngay trong mỗi “ngày thường” và cố gắng diễn tả tất cả những điều đó — cái đẹp, sự rung động, nỗi khao khát, cả nỗi bất an, sợ hãi... Câu 7: Em hãy viết đoạn văn khoảng 10 - 15 dòng so sánh hình tượng người đàn bà ngồi đan trong bài thơ trên với hình tượng người phụ nữ trong một tác phẩm khác mà em biết, *Gợi ý: 1. Hình thức: Đảm bảo hình thức đoạn văn với dung lượng 10 - 15 dòng. 2. Nội dung: Hình tượng người phụ nữ thời chống Mỹ trước đó, chủ yếu viết về đề tài chiến tranh, trong đó, hình tượng phụ nữ thường được mô tả như những người anh hùng, với những phẩm chất phi thường, gắn liền đặc thù thời chiến. Ví dụ: Người con gái Việt Nam (Tố Hữu), Khoảng trời, hố bom (Lâm Thị Mỹ Dạ), ... Hình tượng người phụ nữ trong thơ Ý Nhỉ: sớm quan tâm đến những tầng sâu lắng của lòng người và muốn khám phá trong đó những ý nghĩa mới cho thơ ca. Khuôn mặt của chị là một bí ẩn, tâm hồn của chị còn bí ẩn hơn. Chị được giới thiệu là “một người đàn bà” - có lẽ khoảng hai mấy hay ba mấy tuổi. Công việc của chị là “đan” - dùng hai mũi kim dài để kết nối các sợi len theo một quy tắc nhằm tạo ra những vật dụng Biữ ấm cơ thể. Cái bình nh đường như bất biến trước những biến động và quay cuồng của cuộc đời Láyi ======= PAGE 239 ======= đã nâng tầm người đàn bà ngồi đan lên tầm biểu tượng không chỉ ở trong thơ Ý Nhi mà còn là biểu tượng của một giai đoạn phát triển của xã hội, biểu tượng cho cả một thế hệ người Việt Nam. Đó là người đàn bà bí ẩn, vừa làm chủ, vừa uốn theo dòng chảy cuộc đời. Đó là người bình yên, khéo léo đan dệt muôn mặt của cuộc đời để làm nên hạnh phúc. Đó là người đàn bà của những khát khao. -› Sự thay đổi này gắn liền với quan niệm về cái hàng ngày, cái đời thường như một đối tượng thẩm mỹ (một thay đổi có tính bước ngoặt trong quan niệm của nhiều nhà văn Việt Nam giai đoạn hậu chiến và tiền Đổi mới), và gắn liền nhu cầu nghĩ khác, viết khác của tác giả. C. TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH GIỮ GÌN VÀ PHÁT TRIỂN TIẾNG VIỆT Bài 1: Xác định dấu hiệu trong nhan đề bài báo điện tử cho thấy người viết không tuân thủ chuẩn tiếng Việt trong những câu sau: a, Học trò Binz ngẫu hứng free style nhưng netizen muốn “giải cứu” Obito, khẳng định việc có người viết hộ lyrics là có thật (25/1/2022; kenh14.vn) + .. Lạm dụng từ vay mượn: free style, netizen, lyrics b, Táo Quaân 2022 tung trailer chính thức: Hé lộ hàng loạt câu nói “bắt trend” siêu hài hước (23/1/2022; hoahoctro.tienphong.vn) © . Lạm dụng từ vay mượn: trailer, trend: c. Lần đầu tiên “thánh Hvestream” Phạm Thoại hé lộ gia cảnh ở quê, netizen từ anti liền quay xe: “Đừng bom hàng người ta nữa...” (3/2/2022; kenh14.vn) © ... Lạm dụng từ vay mượn: livestream, netizen, anti d. Karina là thành viên “bất tài” nhất Aespa: Main dancer nhưng nhảy thua Winter, all-rounder chỉ là “danh hão”do fan nhận định? (25/1/2022; kenh14.vn) se .. Lạm dụng từ vay mượn: main dancer, all-rounder, fan Câu hỏi phụ: Theo em, trong những tình huống như thế nào thì các cách “phá vỡ” chuẩn mực dùng từ ngữ tiếng Việt được chấp nhận? Các trường hợp trên có nằm trong ngoại lệ đó không? *Gợi ý: 238 ======= PAGE 240 ======= lập U1 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? « _ Những nh huống có cách “phá vỡ” chuẩn mực dùng từ ngữ tiếng Việt được chấp hàm: e _ Nhiều trường hợp không thể thay thế từ Hán Việt (từ mượn) bằng những từ ngữ tuần ViệU' đồng nghĩa. Chẳng hạn, không thể thay “phi công” bằng “người lái máy say”, thay “máy bay trực thăng” bằng “máy bay lên thắng” s ._ Những yếu tố mới có tác dụng đáp ứng nhu cầu giao tiếp của người Việt, ví dụ: từ xternet được nhập vào vốn từ tiếng Việt một cách thuận lợi vì nó biểu đạt một khái niệm mới, rất quan trọng mà tiếng Việt chưa có từ ngữ để biểu đạt. « ._ Những cách tân, sáng tạo của nhà văn trong việc kết hợp từ ngữ độc đáo để tạo nên những hiệu quả thẩm mỹ, truyền tải thông điệp ý nghĩa. Ví dụ: chợ trăng rượu cuội (Nguyễn Duy), Thu rất em uà xanh rất cao (Lê Đạt) Các trường hợp trên không nằm trong ngoại lệ đó. Về quy tắc, các bài báo phải tôn trọng thuẩn mực tiếng Việt, tuy nhiên khá nhiều bài báo mạng điện tử lựa chọn những cách viết như vậy để gần gũi hơn với đối tượng độc giả trẻ; vì thế lối viết kiểu này vẫn phổ biến. Bài 2: Mỗi từ ngữ in đậm trong các câu dưới đây có ý nghĩa khác nhau. Hãy cho biết các nghĩa của mỗi từ ngữ và suy đoán xem trong những nghĩa đó, nghĩa nào có trước, nghĩa nào có sau và giải thích cơ sở của sự suy đoán: : a. Gãy lái đứt neo, tàu thoát qua rốn bão Anh nguyên lành trở về căn phòng em Bỗng gặp cơn bão nhà không triều, không sóng Chiến hạm đời anh lặng lẽ cắt neo Chìm.... (“Bão” - Nguyễn Vũ Tiềm) Từ “bão” ở dòng thơ thứ nhất là thiên tai thiên nhiên, gây ra cho con người những thiệt hại về tính mạng và tài sản. Nghĩa có trước: Từ “bão” ở dòng thơ thứ hai là những nỗi buồn đau, những khó khăn khó giải quyết khiến người gặp phải băn khoăn, trăn trở trong lòng. Nghĩa có sau: Cơ sở của sự suy đoán: +» Từ “bão” ở dòng thơ thứ nhất xuất hiện trước vì đây là nghĩa gốc của từ “bão”, được sử dụng phổ biến trong đời sống. » Từ “bão” ở dòng thơ thứ hai xuất hiện sau do đây là nghĩa bóng, được phát triển 239 ======= PAGE 241 ======= từ nghĩa gốc và thường được sử dụng trong văn học nghệ thuật. b. Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng (“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” - Nguyễn Khoa Điềm) Từ “mặt trời” ở dòng thơ thứ nhất là mặt trời của tự nhiên, soi sáng cho muôn loài, đem lại hơi ấm cho thế giới. Nghĩa có trước: Từ “mặt trời” ở dòng thơ thứ hai là đứa con của người mẹ dân tộc Tày. Bởi đứa trẻ ấy cũng mang lại ánh sáng, niềm tin, niềm hy vọng cho người mẹ. Nghĩa có sau: Cơ sở của sự suy đoán: e Từ “mặt trời” ở dòng thơ thứ nhất xuất hiện trước vì đây là nghĩa gốc của từ “mặt trời”, được sử dụng phổ biến trong đời sống. s _ Từ “bão” ở dòng thơ thứ hai xuất hiện sau do đây là nghĩa bóng, được phát triển từ nghĩa gốc và thường được sử dụng trong văn học nghệ thuật. c. Cô gái như chùm hoa lặng lễ Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu. (Anh vô tình anh chẳng biết điều Tôi đã đến với anh rồi đấy...) Rồi theo từng hơi thở của anh Hương thơm ấy thấm sâu vào lồng ngực Anh lên đường hương sẽ theo đi khắp Họ chia tay vẫn chẳng nói điều gì Mà hương thầm thơm mãi bước người đi. (“Hương thầm” - Phan Thị Thanh Nhàn) Từ “hương thơm” ở dòng thơ thứ nhất là mùi hương dễ chịu (trong ngữ cảnh này “hương thơm” tỏa ra từ chùm hoa), đem lại cho con người cảm giác thoải mái. 240 ======= PAGE 242 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Nghĩa có trước: Từ “hương thơm” ở dòng thơ thứ hai là tình cảm đặc biệt mà người con -ï¡ gửi gắm đến người con trai vào ngày chia tay (tình yêu lứa đôi) Nghĩa có sau: Cơ sở của sự suy đoán: » _ Từ “hương thơm” ở dòng thơ thứ nhất xuất hiện trước vì đây là nghĩa gốc của từ “hương thơm”, được sử dụng phổ biến trong đời sống. e _ Từ “hương thơm” ở dòng thơ thứ hai xuất hiện sau do đây là nghĩa bóng, được phát triển từ nghĩa gốc và thường được sử dụng trong văn học nghệ thuật. Bài 3: Phân tích từ ngữ được sử dụng theo cách rất riêng của Hàn Mặc Tử ở đoạn thơ sau trong bài “Mùa xuân chín”: Trong làn nắng ửng: khói mơ tan, Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng. Sột soạt gió trêu tà áo biếc, Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang. Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời Bao cô thôn nữ hát trên đồi; ~- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi... Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi, Hổn hến như lời của nước mây, Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc, Nghe ra ý vị và thơ ngây... Khách xa gặp lúc mùa xuân chín, Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng: - “Chị ấy, năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?” 341 ======= PAGE 243 ======= Phân tích từ ngữ được sử dụng: Nhan đề “Mùa xuân chín”: tính từ “chín” có khả năng tạo hình rất cao. Nó không chỉ cho phép liên tưởng mùa xuân như một thứ quả mà còn gợi đến trạng thái phát triển đầy đủ, tận cùng với màu sắc rực rỡ (đỏ hoặc vàng), hương thơm, vị ngọt, trạng thái căng mọng... Bài thơ tràn ngập màu sắc lung linh: 4 từ chỉ màu sắc với 5 lần được sử dụng: Vàng (của đôi mái nhà tranh), biếc (của tà áo), xanh (của sóng cỏ và của xuân), trắng (của cát dọc bờ sông). Học sinh chú ý phân tích các từ láy tượng thanh, tượng hình trong bài thơ cũng như các biện pháp nhân hoá. ^ D. VIET VIẾT BÀI PHÁT BIỂU TRONG LỄ PHÁT ĐỘNG MỘT PHONG TRÀO HOẶC MỘT SỰ KIỆN Xà HỘI II. Đọc ngữ liệu tham khảo và trả lời câu hỏi Câu 1: Bài phát biểu được viết nhằm mục đích gì? Để đạt được mục đích đó, tác giả đã đưa ra luận điểm, lí lẽ và bằng chứng như thế nào? Bài phát biểu được viết nhằm mục đích khích lệ các bạn trẻ hãy học cách yêu thương chính bản thân mình. Để đạt được mục đích đó, tác giả đã đưa ra luận điểm, lí lẽ và bằng chứng: Luận điểm 1: Chia sẻ câu chuyện của bản thân từ khi còn ấu thơ cho tới lúc tìm được chính mình trong thế giới âm nhạc. » __ Lí1ẽ: Tôi muốn bắt đầu bằng việc chia sẻ về bản thân mình. « __ Bằng chứng: “Trong bài intro (bài mở đầu) của một trong những album đầu tiên của chúng tôi có câu hát: Trái tim tôi đã ngừng đập khi tôi lên 9 hay 10”, “Nếu có bất kỳ điều gì tôi gặt hái được, thì đó chỉ có thể là vì tôi có các thành viên của BTS luôn kề vai sát cánh bên tôi, và vì tình yêu và sự ủng hộ mà các A.R.M.Y, fan của chúng tôi trên toàn thế giới đã dành cho chúng tôi”,... Luận điểm 2: Ý nghữa của album Love Yourself và chiến dịch Love Myself. se __ Lí lẽ: Những câu chuyện này luôn nhắc nhở chúng tôi về trách nhiệm của mình. 242 ======= PAGE 244 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? » ... Bằng chứng: sau khi phát hành album Love Yourself và phát động chiến địch Love XMlvself, chúng tôi bắt đầu nghe được những câu chuyện ấn tượng từ các fan trên thế giới, nghe về cách mà thông điệp của chúng tôi đã giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống và bắt đầu yêu thương bản thân mình. Luận điểm 3: Trình bày lời kêu gọi, khích lệ tham gia chiến dịch. Câu 2: Xác định đối tượng mà bài phát biểu hướng đến. Ngôn ngữ trong bài phát biểu có phù hợp với đối tượng này không? Vì sao? e _ Đối tượng: các bạn trẻ e __ Ngôn ngữ gần gũi, thân mật; giọng điệu chân thành, nhã nhặn > Phù hợp. Câu 3: Xác định một số yếu tố biểu cảm được thể hiện trong bài phát biểu trên và nêu tác dụng của các yếu tố đó? e _ Yếu tố biểu cảm: o_ Chúng tôi thật sự có những người hâm mộ tuyệt vời nhất thế giới. o_ Tôi yêu thương con người của chính tôi hôm nay, yêu thương cả tôi trong quá khứ và cả con người mà tôi hy vọng tôi có thể trở thành trong tương lai. o cà. e Tác dụng của yếu tố biểu cảm: giúp người viết bộc lộ cảm xúc, tình cảm, tạo ra sự gần gũi giữa người phát biểu và đối tượng lắng nghe, làm cho văn bản có thêm sức lôi cuốn, thuyết phục. Câu 4: Theo em, lời kêu gọi của tác giả có thể nhận được sự hưởng ứng rộng khắp không? Nếu có thì sự ảnh hưởng đó do đâu mà có? Lời kêu gọi của tác giả có thể thu hút được sự quan tâm rộng rãi vì yêu thương chính bản thân mình là một vấn đề bản thể, có sức tác động đến mọi người ở mọi quốc gia và dân tộc. Để mong cầu một ai đó thấu hiểu và yêu thương mình, trước hết mỗi chúng ta cần nhận ra giá trị của bản thân và trân trọng con người bên trong của chính mình. II. Thực hành viết Với chủ đề “Thiện nguyện và sứ mệnh của chúng ta”, anh/chị hãy viết một bài phát biểu để đọc trong buổi phát động phong trào năm nay. *GợI ý: 243 ======= PAGE 245 ======= a: Xác định đúng yêu cầu kiểu bài Học sinh viết đúng cấu trúc bài văn: Mở bài giới thiệu được vấn đề nghị luận, Thân bài triển khai được vấn đề nghị luận, Kết bài khẳng định lại vấn đề nghị luận. Kiểu bài: Bài phát biểu trong lễ phát động một phong trào. b: Xác định đúng trọng tâm Bài phát biểu để phát động phong trào với chủ đề “Thiện nguyện và sứ mệnh của chúng ta. c: Triển khai vấn đề nghị luận Học sinh lựa chọn hệ thống luận điểm phù hợp để thực hiện, có thể theo hướng như Sau: LĐI: Mục đích của chủ đề “Thiện nguyện và sứ mệnh của chúng ta” LĐ2: Chia sẻ kinh nghiệm của bản thân khi tham gia phong trào này. LĐ3: Các giải pháp để tham gia phong trào một cách tích cực, hiệu quả. d: Viết bài phát động đảm bảo những yêu cầu sau: s Triển khai được ít nhất 03 luận điểm để làm sáng tỏ vấn đề s Trình bày vấn đề một cách rõ ràng, thuyết phục, có sử dụng đan xen thuyết minh, biểu cảm, có dẫn chứng kèm theo. ø Sử dụng lý lẽ, dẫn chứng xác đáng, thuyết phục; sắp xếp các ý một cách logic, hợp lý, rõ ràng, đảm bảo tính mạch lạc đ: Chính tả, ngữ pháp Học sinh cần đảm bảo chính tả, ngữ pháp, liên kết câu, đoạn. e: Sáng tạo: Học sinh có những ý tưởng sâu sắc, có cách diễn đạt phong phú, sinh động, mới mẻ. E. LUYỆN TẬP L. Đọc văn bản, trả lời câu hỏi MIỀN CỎ HOANG Trần Thanh Hà Câu 1: Truyện ngắn này xoay quanh bao nhiêu sự kiện? Căn cứ vào đâu để xác định rhư vậy? 24 ======= PAGE 246 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? 1. Truyện ngắn xoay quanh ba sự kiện: Sự kiện 1: Nhân vật Thao từ chiến trường trở về quê hương với vết thương trên mặt và vết thương lớn trong lòng khi phải đứng trước bàn thờ mình, đối điện với “cái chết” của chính mình, còn người đầu gối tay ấp ngày nào đã đi bước nữa. Sự kiện 2: Cô Sửu bỏ chồng, quyết định một mình nuôi con. Sự kiện 3: Cô Nền - người phụ nữ không chồng nhưng có ba người con, chuyển về ở với chú Thao 2. Căn cứ vào các tình tiết trong truyện, thái độ, tình cảm của các nhân vật khi đối diện với các sự kiện đó. Cầu 2: Theo em, tại sao nhà văn lại xây dựng người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, người xuất hiện trong tư cách là “người cháu” của chứ Thao? Giả sử như truyện này được kể từ ngôi thứ ba thì câu chuyện có thay đổi gì đáng kể? 1. Người kể chuyện là người cháu trong gia đình, có mối quan hệ gần gũi với các nhân vật. Chính vì vậy, khi kế chuyện, câu chuyện sẽ có độ tin cậy bởi nó được kể ra từ người trong cuộc. Bền cạnh đó, ngôi kể thứ nhất được đặt vào người cháu - một đứa trẻ, sẽ mang góc nhìn hồn nhiên, ngây thơ khi chứng kiến những tấn bi kịch xếp chồng của thế giới người lớn. 2. Nếu câu chuyện được kể từ ngôi thứ ba thì những góc khuất, những bí mật của gia đình sẽ không được tiết lộ, người ngoài cuộc sẽ không thể hiểu hết được những nỗi đau của người trong cuộc. Câu 3: Theo em, bi kịch của các nhân vật trong câu chuyện là gì? Bi kịch của nhân vật Thao là bi kịch của người lính với những ngang trái, đở dang mà chiến tranh mang lại. Bí kịch của những người phụ nữ: người bà, thím Hồng, cô Sửu, cô Nên. + Những người phụ nữ trong truyện ngắn này chứa những góc khuất thầm kín, khát vọng bản năng, những vấp ngã đời thường. Bên cạnh đó, họ vẫn toát lên đặc trưng nếp nghĩ, phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam truyền thống > bị kịch lớn nhất là không có một gia đình trọn vẹn. Câu 4: Nhà văn Trần Thanh Hà từng tâm sự: “Dù siết tỀ cái gì, dù nhân uật của tôi là ai, đàn ông hay đàn bà, người già hay còn trẻ, kẻ có quá khứ hoặc tung hệ tất cả... dù cuộc đời họ như thế nào, thì bạo giờ đối nới tôi đấy cũng là một niềm khắc khoải mong mỗi cho con người được sống 245 ======= PAGE 247 ======= tôt hơn, nhân hậu hơn, là mình hơn”, Dựa vào những hiểu biết về chức năng của văn học và truyện ngắn “Miền cỏ hoang”, em hãy viết một đoạn văn từ 10 - 12 dòng trình bày ý kiến về nhận định trên. 1. Hình thức: Đảm bảo hình thức đoạn văn với dung lượng từ 10 - 12 dòng 2. Nội dung: s _ Giải thích nhận định: Học sinh bám sát vào từ khóa trong nhận định để giải thích, từ đó rút ra: Trần Thanh Hà viết nhiều về nỗi đau của con người, nhưng trên tất cả tác giả luôn có niềm tin vào tính người, vào giá trị nhân bản của họ. e . Họcsinh nêu được ít nhất 01 chức năng văn học thông qua truyện ngắn “Miền cỏ hoang” - Thanh Hà » __ Chức năng nhận thức: nhận ra được bi kịch chấn thương tâm lý của con người thời hậu chiến. Đó là những nỗi đau dai đẳng, mưng mủ và khó có thể khỏa lấp. » ... Chức năng giáo dục: dẫu mang trong mình những vết thương lớn nhưng các nhân vật trong truyện ngắn vẫn cố gắng gìn giữ những vẻ đẹp, phẩm chất cao quý. Họ sống với nhau bằng tình người, đến với nhau bằng chữ nghĩa. (Chú Thao và cô Nền, dẫu cuộc đời có đồn họ đến chân tường, nhưng sau cùng họ vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn mong cầu tìm được một điểm tựa tỉnh thần bình yên, ...) : 246 ======= PAGE 248 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? II Luyện tập viết a. Xác định đúng yêu cấu kiểu bài e _ Họcsinh viết đúng cấu trúc bài văn: Mở bài giới thiệu được vấn đề nghị luận, Thân bài triển khai được vấn đề nghị luận, Kết bài khẳng định lại vấn đề nghị luận. e .. Viết đúng dung lượng yêu cầu: 600 chữ (+/- 10%) s _ Kiểu bài: nghị luận văn học b. Xác định đúng trọng tâm Giá trị của nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng trong thời đại ngày nay c. Triển khai vấn đề nghị luận Học sinh lựa chọn hệ thống luận điểm phù hợp để thực hiện, có thể theo hướng như sau: LĐI: Giá trị của nghệ thuật đối với người thưởng thức: + Nhận ra đời sống vốn phức tạp hơn tất cả những gì chúng ta hay biết, để chất vấn chính xã hội, để bớt vô tâm vô tư, để nhận ra những thân phận không được như chúng ta LĐ2: Giá trị của nghệ thuật đối với những người lao động nghệ thuật LĐ3: So sánh với cách tái hiện đời sống của truyền thông đại chúng: e© Nghệ thuật là nơi bảo vệ phần cá nhân, không mở ra như cách truyền thông đại chúng. Đọc một tác phẩm là thực hiện sự giao tiếp giữa cá nhân và cá nhân. Sự thành thật trong văn học sự được tri nhận bằng sự đọc mang tính cá nhân. ® Có những trạng thái của thế giới cần đến thơ ca để chiếm lĩnh và biểu đạt (Không một trang báo nào viết về một người đàn bà vô danh tại vùng biển nghèo bị chồng đánh đập, không một phóng viên nào sẽ lựa chọn phỏng vấn những người lính thời hậu chiến bị chấn thương tỉnh thần, ...) » _ Nghệ thuật phản ánh, bồi đắp thế giới trong trạng thái thẩm mĩ... d. Viết bài văn đảm bảo yêu cầu sau e __ Triển khai được ít nhất 02 luận điểm để làm sáng tỏ vấn đề. se _ Trình bày vấn đề một cách rõ ràng, thuyết phục, có sử dụng đan xen phân tích, đánh giá và cảm nhận, có dẫn chứng kèm theo. e _. Sử dụng lý lẽ, dẫn chứng xác đáng, thuyết phục; sắp xếp các ý một cách logic, hợp lý, rõ ràng, đảm bảo tính mạch lạc. 247 ======= PAGE 249 ======= 248 đ. Chính tả, ngữ pháp Học sinh cần đảm bảo chính tả, ngữ pháp, liên kết câu, đoạn. e. Sáng tạo: Học sinh có những ý tưởng sâu sắc, có cách diễn đạt phong phú, sinh động, mới mẻ. Học sinh tự nêu cảm nhận về bức tranh. Nhắc lại đàn ý Mở đoạn: giới thiệu được bức tranh “The Milkmaid” Thân đoạn: Học sinh có thể nêu cảm nhận theo hướng sau: © _. Nêu cảm nhận về giá trị nghệ thuật » . Rút ra ý nghĩa, thông điệp của tác phẩm đối với bản thân và đời sống ngày nay Kết đoạn: Khẳng định lại một lần nữa giá trị của bức tranh với em. a. Yêu cầu về kiểu bài Cần đảm bảo bố cục đủ ba phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài Kiểu bài: Viết bài phát biểu trong lễ phát động một phong trào b. Xác định đúng trọng tâm Khích lệ các bạn học sinh tìm ra phương hướng thích ứng, tồn tại và phát triển trong kỉ nguyên số. c. Triển khai vấn đề nghị luận Học sinh triển khai thành các ý phù hợp để làm sáng tỏ vấn đề, có thể theo hướng như sau: LĐI: Mục đích của chủ đề “Con người - Trí tuệ nhân tạo - Tương lai” LĐ2: Chia sẻ kinh nghiệm của bản thân khi tham gia phong trào này. LĐ3: Các giải pháp để tham gia phong trào một cách tích cực, hiệu quả. ======= PAGE 250 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? d. Viết bài phát động đảm bảo yêu cầu sau s __ Triển khai được ít nhất 02 lý lẽ để làm sáng tỏ vấn đề ø __ Trình bày vấn đề một cách rõ ràng, thuyết phục, có sử dụng dẫn chứng minh hoạ phù hợp s __ Sử dụng lý lẽ, dẫn chứng xác đáng, thuyết phục; sắp xếp các ý một cách logic, hợp lý, rõ ràng, đảm bảo tính mạch lạc đ. Chính tả, ngữ pháp Học sinh cần đảm bảo chính tả, ngữ pháp, liên kết câu, đoạn. e. Sáng tạo Học sinh có những ý tưởng sâu sắc, có cách diễn đạt phong phú, sinh động, mới mẻ, 249 ======= PAGE 251 ======= BÀI 02: LẮNG NGHE KHÚC HÙNG CA LỊCH SỬ . ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN BẢN 1 GIÁ TỪNG THƯỚC ĐẤT Chính Hữu SAU KHI ĐỌC Câu 1: Hãy xác định chủ thể trữ tình và đối tượng trữ tình của bài thơ. Chủ thể trữ tình: Người lính Điện Biên (ở đây có thể là tác giả vì ông từng trải qua chiến tranh đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954). Đối tượng trữ tình: Đồng đội và những năm tháng khó khăn nhưng oanh liệt của cuộc chiến. Câu 2: “Năm mươi sáu ngàu đêm bom gầm pháo siội”, câu thơ này mở ra sự kiện lịch sử nào của dân tộc ta? Sự kiện chính trị - lịch sử đó được thể hiện trực tiếp thông qua những hiện thực nào trong bài thơ? e - Câu thơ nhắc nhớ tới chiến địch Điện Biên Phủ năm 1954. “Năm mươi sáu ngà đêm” chính xác là 56 ngày đêm tính từ 13/03/1954 - 07/05/1954, “bom gầm pháo giội” đã mô tả lại trận đánh lịch sử của cả dân tộc, một chiến dịch thành công, vang xa tận năm châu. » . Sự kiện chính trị - lịch sử đó được thể hiện trực tiếp thông qua: e _. Hiện thực cuộc sống kháng chiến: khó khăn gian khổ nhưng tình nghĩa, gắn bó, sẻ chia. (Học sinh lấy dẫn chứng từ bài thơ: hình ảnh, từ ngữ,...) VD: “Đồng đội tallà hớp nước uống chunglInắm cơm bé nửa” => chủa ngọt sẻ bùi từng miếng cơm, manh áo, cùng nhau vượt qua cái thiếu thốn của cuộc kháng chiến. « _. Hiện thực nơi mặt trận, chiến trường: tàn khốc, ác liệt. (Học sinh lấy dẫn chứng từ bài thơ: từ ngữ, hình ảnh,...) VD: “bom gầm pháo giội” - mưa bom bão đạn bủa vây chiến trường; “Mảnh đấCác anh niềm” - Cái chết luôn rình rập từng phút từng giây, ranh giới sinh tử mong manh vô cùng. Câu 3: Tỉnh thần đồng đội của người lính Điện Biên hiện lên bằng những hình ảnh, từ ngữ, bút pháp nghệ thuật nào? 1. Tĩnh thần đồng đội thể hiện trong cuộc sống kháng chiến: ======= PAGE 252 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Đùm bọc, san sẻ những gian khó nơi chiến hào: Hình ảnh thơ “chiến hào chật hẹp”, “Là ;hia nhau một trưa nắng, một chiều mưa”; biện pháp điệp cấu trúc “LÀ...” 2. Tinh thần đồng đội thể hiện trong chiến trường khốc liệt: Hi sinh cuộc sống của bản thân: Hình ảnh xung phong đánh giặc nơi trận mạc “Bạn íz đö/Ngã trên dâu thép ba tầngIMột bàn tay chưa rời báng súng” 3. Tỉnh thần đồng đội qua cảm xúc của chủ thể trữ tình: Ngưỡng mộ, khâm phục: Thán từ “Ôi” trước hình ảnh bị tráng, hào hùng của đồng đội: “những con người mỗi khi nằm xuốngIVẫn nằm trong tư thế tiến công” Khắc ghủ trong tâm trí: Câu hỏi tu từ “Có phải các anh vẫn còn đủ cả/Trong đội hình đại đội chúng ta?” -> Tinh thần đồng đội là cảm hứng xuyên suốt, chủ đạo, đã thấm nhuần vào cả nội dung, tư tưởng và hình thức nghệ thuật của bài thơ. Câu 4: Ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ Chính Hữu viết: Ôi những con người mỗi khi nằm xuống Vẫn nằm trong tư thế tiến công! Cuối khổ thơ đó, ông lại viết: Những đêm tiến công, những ngày phòng neự, Có phải các anh uẫn còn đủ cả Trone đội hình đại đội chúng ta? Theo em, liệu những dòng thơ trên có đối nghịch với nhau? Hãy lí giải cách hiểu của minh. Lí giải: Hai câu thơ đầu tiên tác giả dùng “đôi mắt đã nhìn lần nhìn vào cái chết” (Nguyễn Đình Thí) để khắc họa hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Đó chính là hình ảnh những người lính Điện Biên hi sinh một cách đầy anh đũng và bi tráng. Ba câu thơ bên dưới khẳng định sức sống mãnh liệt của hình tượng người lính Điện Biên trong trái tìm của đồng đội nói riêng và toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung. Cho dù các anh đã nằm yên cùng với đất mẹ nhưng những cống hiến và dáng hình tráng lệ của các anh vẫn còn mãi với người, với đời. -> Đây không phải là sự nghịch lí hay mâu thuẫn về mặt logic mà là dụng ý nghệ thuật 251 ======= PAGE 253 ======= của nhà thơ khi tạo nên sự đối lập giữa sự thật khách quan và sự chân thành của trái tim. Từ đó, tác giả đã cất cao lời ngợi ca, biết ơn tới những người lính Điện Biên trong sự kiện vàng son năm ấy. Câu 5: Liệt kê các biểu hiện của khuynh hướng sử thi trong bài thơ. Chọn một biểu hiện mà bạn ấn tượng để phân tích và cảm nhận. Học sinh dựa vào tri thức ngữ văn về khuynh hướng sử thi để vận dụng vào bài thơ: cần chỉ ra những hình ảnh mang đậm tiếng nói của nhân dân, cộng đồng trong kháng chiến hoặc những hình tượng về người lính anh hùng, tráng lệ. Ví dụ: s Câu thơ ghi lại sứ mệnh của dân tộc, những sự kiện chính trị - lịch sử: “Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo siội” e Câu thơ ghi tạc hình tượng người lính Điện Biên anh hùng: “Ôi những con người mỗi khi nầm xuống!Vẫn còn trong tư thế tiến công” Học sinh lựa chọn một hình ảnh/câu thơ ấn tượng để cảm nhận và phân tích. Ví dụ: Đôi câu thơ “Ôi những con người mỗi khi nằm xuống!Vẫn còn trong tư thế Hến công “ đã khắc tạc lên hình tượng người lính Điện Biên với tư thế và tâm thế của một người anh hùng, mặc dù đã về với đất mẹ nhưng tỉnh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” vẫn rực lửa. Đó là sự bất tử hóa của nhà thơ dành cho những người lính đã quên mình để cống hiến, hi sinh cho đất nước. Câu 6: Phân tích và nêu hiệu quả cấu trúc, cách tổ chức ngôn ngữ trong khổ thơ cuối của bài thơ trên. Học sinh đựa vào thể thơ, cách ngắt dòng, ngắt nhịp của khổ thơ để phân tích và cảm nhận. Thể thơ tự do trở thành bầu trời khoáng lạc để nhà thơ bày tỏ cảm xúc, nội dung và tư tưởng một cách giàu tự sự, giàu hình ảnh. (có thể so sánh với thể thơ lục bát truyền thống trong thơ Tố Hữu). Cách ngắt thơ hiện đại cùng với lối thơ vắt dòng tạo ra dòng cảm xúc không hề ngắt quãng, cục bộ mà liên tục, trôi chảy như một dòng thác đổ: “Các anh ở đây/Trận địa là đâu,/ Trận địa sẽ không lùi nửa bước,IKhông bao giờ, không bao giờ để mất”. Cấu trúc tổ chức ngôn ngữ này vừa hiện đại bởi cách ngắt dòng thơ vừa pháng phất tính nhạc, tạo nên khúc hùng ca đầy bi tráng của người lính Điện Biên: “Các anh ở đây/Trận ” ======= PAGE 254 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? địa là đâu,FTrận địa sẽ không lùi nửa bước,IKhông bao giờ, không bao giờ để mất” Câu 7: Theo em, vậy rốt cuộc “giá từng thước đất” là gì? Cái “giá” đó để lại cho em bài học gì về mối quan hệ giữa cá nhân với Tổ quốc ngày nay? 1. “Giá từng thước đất” là sự cống hiến, hi sinh xương máu của những người chiến sĩ Điện Biên, hay nói như cách nói của Hữu Thỉnh đó là: “Tổ Quốc sau những ngày giành giật trên tay ta là một nắm đất son nắm đất son lẫn nhiều mảnh đạn nói với ta muôn nỗi mất còn” 2. Cái “giá” đó đã thức tỉnh em về sứ mệnh và trách nhiệm của mỗi con người đối với đất nước, đặc biệt là người trẻ trong thời đại mới. Những người lính khi xưa đã băng mình ra chiến trận để gìn giữ non sông, chúng ta - những người con của đất mẹ Việt Nam, cần phát huy, kế tục tính thần yêu nước và không ngừng trau đồi bản thân để trở thành công dân toàn cầu, góp mình dựng xây đất nước hưng thịnh muôn đời. VĂN BẢN2 KHOẢNG TRỜI, HỒ BOM Lâm Thị Mỹ Dạ Câu 1: Cảm nhận hai đối tượng trong nhan đề bài thơ Khoảng trời, hố bom, những đối tượng đó có mối liên hệ nào tới đối tượng trữ tình xuyên suốt tác phẩm? 1, Hai đổi tượng trong nhan đề bài thơ: “Khoảng trời” biểu trưng cho sự khoáng đạt, tự do, hòa bình. “Hố bom” là hiện diện của chiến tranh, bom đạn, khói lửa, thậm chí là cái chết. 2. Mối liên hệ của hai đối tượng trên tới đối tượng trữ tình xuyên suốt tác phẩm: Hai đối tượng này có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, đối chiếu với nhau để 3 ======= PAGE 255 ======= tạo nên bức chân dung về vẻ đẹp của đối tượng trữ tình trong bài thơ - cô gái mở đường. “Khoảng trời” là nơi chứa đựng sự khát vọng, ước ao thời con gái của các nữ thanh niên xung phong. Ngược lại, “hố bom“ là nơi chôn vùi tuổi thanh xuân của họ, nơi họ nằm xuống mãi mãi với cuộc đời. Câu 2: Hình tượng nữ thanh niên xung phong hiện lên qua những từ ngữ, hành động, hình ảnh nào trong đoạn thơ đầu tiên? Từ ngữ định danh: “cô gái mở đường” - xác định công việc, nhiệm vụ và sứ mệnh của đối tượng trữ tình. Hình ảnh “cứu con đường hôm ấn khỏi bị thương”, “cho đoàn xe kịp giờ ra trận” - cụ thể hóa, chỉ tiết hóa hoạt động cách mạng của các cô gái thanh niên xung phong, đồng thời khẳng định giá trị, vị trí của các cô gái mở đường trong bản đồ chiến lược của toàn dân tộc giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hình ảnh thơ “lấy tình yêu Tổ quốc của mình thấp lên ngọn lửa” - vừa là hình ảnh tả thực tấm lòng yêu nước của đối tượng trữ tình, vừa là hình ảnh tượng trưng “ngọn lửa” - ngọn lửa bất diệt của tỉnh thần đánh giặc, tỉnh thần xả thân vì nước. Hành động “Đánh lạc hướng thà, hứng lấy luồng bơm” - mô tả chủ tiết những hoạt động, chiến đấu của trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, đồng thời cụ thể hóa sự cống hiến, hóa thân của nữ thanh niên xung phong thời kì đỏ lửa đó. Câu 3: Thể thơ, cách ngắt nhịp, bố cục của bài thơ trên có tác dụng gì trong việc làm rõ đối tượng trữ tình và cảm xúc của chủ thể trữ tình? 1. Thể thơ tự do đậm đà tính tự sự, tạo một không gian vô biên để tác giả có thể cất cao bài hát ngợi ca, tâm tình về những nữ thanh niên xung phong. 2. Cách ngắt nhịp linh hoạt phù hợp với chủ ý của nhà thơ: « “Chuyện kể rằng:/em,/cô gái mở đường”, câu thơ với cách ngắt nhịp 3/1/4 đã thành công tường thuật và giới thiệu được câu chuyện về nữ thanh niên xung phong. s __ “Có phải/da thịt em/mềm mại,/trắng trong/Đã hóa thành/những làn mây trắng”, đôi câu thơ với nhịp ngắt giàu tính nhạc: 2/3/2/2 - 3/4 đã chuyển tải được cảm xúc ngợi ca về vẻ đẹp tỉnh khôi của cô gái mở đường năm ấy. 3. Bố cục bài thơ chia làm năm khố như một câu chuyện có năm phần. Men theo dòng tự sự của tác giả, người đọc thấy được bức chân dung khái quát của cô gái mở đường qua khổ thứ nhất. Khổ hai kể về cuộc hành trình mà nhân vật trữ tình đi viếng thăm nơi những ======= PAGE 256 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? cô gái ấy đã an nghỉ. Khổ ba là những dư âm của nhân vật trữ tình về hình dáng năm nào của người con gái đã hi sinh thân mình vì Tổ quốc. Khổ bốn là khúc hát tán dương về vẻ đẹp của nữ chiến sĩ anh hùng. Khổ năm khẳng định sức sống bền bi của hình tượng người nữ thanh niên xung phong trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam. Câu 4: Bạn hiểu gì về mối quan hệ giữa con người và đất nước trong thời kì kháng chiến chống Mỹ thông qua khổ thơ thứ hai? (Gợi ý: Chú ý uào bốn câu thơ cuôi) Đó là mối quan hệ gắn bó sâu sắc như máu thịt. Con người khi đứng trước huống cảnh đất nước lâm nguy luôn đồng lòng tiến lên đoàn kết đấu tranh dù cho sự hi sinh cả tuổi thanh xuân, tính mạng là điều không tránh khỏi: “Tôi nhìn xuống hố bom đã giết em Mưa đọng lại một khoảng trời nho nhỏ” Và song hành với điều đó, đất nước luôn khắc ghi cống hiến, hóa thân của những con người bé nhỏ, bình dị mà tầm vóc tựa anh hùng: “Đất nước mình nhân hậu Có nước trời xoa dịu uêt thương đau” (Học sinh có thể phân tích thêm nghệ thuật dùng từ, hình ảnh thơ, các bút pháp tư từ, ... để làm nổi bật lên mối quan hệ giữa cá nhân với đất nước) Câu 5: Chọn một đoạn thơ bất kì và phân tích đấu ấn của cảm hứng lãng mạn ở đoạn thơ đó. (Học sinh cần nắm vững tri thức ngữ văn về cảm hứng lãng mạn để áp dụng vào bài thơ, từ đó tìm ra và phân tích những biểu hiện của khuynh hướng đó) Một trong những biểu hiện của cảm hứng lãng mạn trong các sáng tác văn học của giai đoạn 1945 -1975 đó là thi vị hóa về cuộc sống chiến đấu, mặt trận khốc liệt của toàn dân tộc và ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Những điều đó được thể hiện rõ nét trong khổ thơ cuối của thi phẩm: “Tên con đường là lên em gửi lại Cái chết em xanh khoảng trời con gái Tôi soi lòng mình trong cuộc sống của em Gương mặt em, bạn bè tôi không biết ¬ x . Nên mỗi người có gương miặt em riêng. 5 ======= PAGE 257 ======= Viết về “cái chết” nhưng tác giả không dùng những gam màu u tối hoặc ám chỉ tới sự đau đớn, chết chóc mà nhà thơ chọn màu “xanh” - một sự hi sinh vẫn còn sống mãi trong trái tim mọi người. Với chủ ý nói giảm nói tránh sự tang thương, mất mát, tác giả không hướng người đọc bị lụy trước sự ra đi anh hùng của những cô gái mở đường mà muốn ghi dấu trong lòng độc giả vẻ đẹp tỉnh khôi, thuần khiết của họ - “xanh khoảng trời con gái”. Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ, cây bút đã ngân vang tiếng hát ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng bằng việc thiêng liêng hóa và khắc ghi hình tượng của những nữ thanh niên xung phong - những con người “không ai nhớ mặt đặt tên/Nhưng họ đã làm nên Đất Nước” (Nguyễn Khoa Điềm). Câu 6: Đứng trước ý kiến cho rằng bài thơ này tràn ngập cảm hứng lãng mạn khiến cho chất sử thi, hào hùng không được thể hiện rõ nét, bạn sẽ đáp lại như nào? Trình bày quan điểm của mình bằng một bài nói ngắn khoảng 2 - 3 phút. Học sinh có thể đồng tình hoặc không đồng tình với ý kiến trên, chỉ cần lí giải và chứng, minh một cách hợp lí, thuyết phục. Có thể ghi ý chính ra giấy để làm cơ sở cho bài nói của mình. Em không đồng tình với ý kiến trên vì: s _. Sự hiện diện rõ nét của khuynh hướng sử thi (lấy dẫn chứng trong bài thơ và phân tích biểu hiện đó). s _. Sự hòa quyện, kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn (nên lấy một khổ thơ có bóng đáng của cả hai điều này để chứng minh). > Rút ra kết luận: Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ không hề lấn át hay triệt tiêu sự hiện diện của khuynh hướng sử thi mà ngược lại cả hai đã phối hợp, cộng hưởng lẫn nhau một cách hài hòa, hợp lí. Bài thơ “Khoảng trời, hố bom” mang đầy đủ cả hai đặc trưng này của thơ văn cách mạng. Câu 7: Qua hình tượng nữ thanh niên xung phong mở đường và hình tượng người lính trong những bài thơ cùng thời kì, bạn hãy mô tả lại bức tranh toàn cảnh thế hệ trẻ “xẻ đọc Trường Sơn đi cứu nước” bằng ngôn từ của mình. Học sinh có thể viết một đoạn văn hoặc bài văn hoàn chỉnh, thực hiện thao tác liên hệ, so sánh thế hệ trẻ trong văn học thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước giữa bài thơ “Khoảng trời, hố bom” và những sáng tác cùng thời. Cần rút ra được điểm giống và điểm khác (có thể lí giải cơ sở cho hai đặc điểm đó) của các tác phẩm. Sau đây là một vài gợi ý về ngữ liệu: Thơ của Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Tố Hữu, Nguyễn Duy, Lê Anh Xuân, 256 ======= PAGE 258 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, ... C. TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH Bài 1: Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ nhân hóa trong cách câu thơ sau đây: a. _ Áo bào thay chiếu anh uề đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành (Tây Tiên, Quang Dũng) e _ Biểu hiện: “Sông Mã” được gắn với hành động “gầm”. « = Tác dụng: o_ Về mặt nội dung: Nhấn mạnh sự tiếc thương, đau xót của người và cảnh trước sự ra đi của người lính Tây Tiến. o_ Về mặt nghệ thuật: Giúp cho hình ảnh thơ trở nên sống động, gây ấn tượng mạnh với người đọc. b. Đất nước mình nhân hậu Có nước trời xoa dịu oết thương đau. (Khoảng trời, hố bom, Lâm Thị Vỹ Dạ) e _ Biểu hiện: Hình ảnh “đất nước” gắn với tính từ “nhân hậu”; hình ảnh “nước trời” gắn với động từ “xoa dịu”. ® Tácdụng: o_ Về mặt nội dung: Nhấn mạnh, khẳng định mối quan hệ ruột thịt, gắn bó sâu sắc của cá nhân với đất nước. o_ Về mặt nghệ thuật: Khiến cho hình ảnh thơ trở nên sinh động, có hồn hơn, tăng sức biểu cảm của ý thơ. Bài 2: Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ ẩn dụ trong các câu thơ sau: 8 .Đi qua khoảng trời em - Vầng dương thao tiức Hõi Mặt Trời, ha chính trái tùm em trong ngực Soi cho tôi Ngày hôm nay bước tiếp quãng đường đài? (Khoảng trời, hố bom, Lâm Thị Vụ Dạ) %7 ======= PAGE 259 ======= Biểu hiện: “Mặt Trời" ấn dụ cho ánh sáng của Đảng hoặc có thế hiểu là tượng ° iểu -. l trưng cho vẻ đẹp rực sáng của nữ thanh niên xung phong: se Tác dụng: o_ Về mặt nội dung: Nhấn mạnh vẻ đẹp tỉnh khôi, lí tưởng sống chói lòa của đối tượng trữ tình, đồng thời thể hiện sự ngợi ca, tán dương của tác giả đối với người con gái mở đường. o_ Về mặt nghệ thuật: Làm cho câu thơ trở nên giàu tính biểu cảm, tăng sức gợi hình, gợi cảm cho ý thơ. b. Hoa chuẩn bị âm thầm trong đất Nơi đó nhất định mùa xuân sẽ bùng lên (Trường ca Những người đi tới biển, Thanh Thảo) ® .. Biểu hiện: “hoa” ẩn dụ cho thành quả, trái ngọt của hoạt động cách mạng. ® Tácdụng: o©_ Về mặt nội dung: Nhấn mạnh niềm tin của tác giả vào sự chiến thắng của toàn dân tộc trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. 9 _ Về mặt nghệ thuật: Tăng sức biểu đạt, biểu cằm cho cậu thơ, Bài 3: Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong các câu thơ sau: q. Mười tâm hai mươi sắc như cỏ Dây như cỏ Yế mềm 0à mãnh liệt như cỏ ¬ (Trường ca Những người đi tới biển, Thanh Thảo) Biểu hiện: Tác giả ví tuổi “mười tám hai mươi” với hình ảnh “cỏ ảnh “cỏ”, câu thơ. 258 ======= PAGE 260 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? b. Em nằm đưới đất sâu Nhự khoảng trời đã nằm tên trong đất (Khoảng trời, hố bom, Lâm Thị Vỹ Dạ) « _ Biểu hiện: Tác giả ví hình ảnh “em nằm dưới đất sâu” với hình ảnh “khoảng trời đã nằm yên trong đất”. se Tácdụng: se Về mặt nội dưng: Nhấn mạnh sự hi sinh, hóa thân của nữ thanh niên xung phong; đồng thời thể hiện nỗi xót xa, tiếc thương trước sự ra đi anh dũng đó. » _ Về mặt nghệ thuật: Làm sáng rõ đối tượng của câu thơ, gợi liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc, khiến cho sự diễn đạt trở nên sinh động hơn. Bài 4: Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ điệp ngữ trong các câu thơ Sau: 4. Chiều hành quân Qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt (Màu tím hoa sim, Hữu Loan) e __ Biểu hiện: Điệp ngữ “những đồi hoa sim” được lặp lại ba lần. se Tácdụng: o_ Vềmặt nội dung: Nhấn mạnh được không gian hành quân trong nỗi nhớ của người lính. o_ Vềmặt nghệ thuật: Khiến cho lời thơ trôi chảy, mượt mà, sống động; tăng tính nhạc cho câu thơ. b. Em ơi em Đất Nước là mâu xương của mình Phải biết gắn bó san sẻ 25q ======= PAGE 261 ======= Phải biết hoá thân cho đáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời... (Trường ca Mặt đường khát oọng, Nguyễn Khoa Điểm) e _ Biểu hiện: Điệp cấu trúc “phải biết” + động từ hoặc điệp ngữ “phải biết” lặp lại hai lần. e Tácdụng: o_ Về mặt nội dung: Nhấn mạnh được sứ mệnh, trách nhiệm của cá nhân đối với đất nước. o_ Về mặt nghệ thuật: Tạo nhịp điệu tha thiết, cầu khẩn cho lời thơ; từ đó khiến cho lời thơ trở nên nhịp nhàng, sinh động hơn. Bài 5: Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ hoán dụ trong các câu thơ sau: 4. Áo chàm đưa buổi phân lụ Cầm tay nhau biết nói gì hôm naụ... (Việt Bắc, Tố Hữu) e __ Biểu hiện: Tác giả dùng “áo chàm” - một loại thường phục của người dân Việt Bắc - để chỉ những con người nơi đây. se Tácdụng: o_ Về mặt nội dung: Nhấn mạnh hình ảnh, dáng hình của người dân Việt Bắc trong miền kí ức của người về xuôi; từ đó thể hiện nỗi nhớ, sự trần trọng khôn xiết của tác giả với nhân dân thủ đô gió ngàn. o_ Về mặt nghệ thuật: Gợi liên tưởng, tưởng tượng cho bạn đọc; tăng sức biểu cảm, biểu đạt cho câu thơ. b. Áo nâu liền uới áo xanh Nông thôn cùng uới thành thị đứng lên (Ba mươi năm đời ta có Đảng, Tế Hữu) e _ Biểu hiện: Tác giả dùng “áo nâu” để chỉ người dân nông thôn, “áo xanh” để hoán dụ cho người dân thành thị. s Tácdụng: 2ñ ======= PAGE 262 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? ¿__ Về mặt nội dung: Nhấn mạnh tình đoàn kết keo sơn, gắn bó của người dân nông dân và thành thị trong sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc. o_ Về mặt nghệ thuật: Tăng sức liên tưởng, tưởng tượng cho nội hàm câu thơ; khiến cho lời thơ trở nên ấn tượng, sống động hơn. D. VIẾT Câu 1: Hãy phân tích thao tác, cấu trúc, nội dung của bài làm mẫu trên ở cột bên phải NỖI NHỚ TRONG VIỆT BẮC CỦA TỐ HỮU VÀ TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn Nhà thơ Chế Lan Viên từng cất lên tiếng thơ đầy thốn thức như thế sau khi đánh rơi hồn mình nơi Tây Bắc hùng vĩ, thiêng liêng. Mỗi bước chân ta đi qua đều lưu lại trên miền đất ấy một lời hẹn ước, một nỗi niềm riêng. Liệu rằng nhà thơ Tố Hữu và thí sĩ Quang Dũng có để lại những sự luyến tiếc, nhớ nhung nào chăng ở nơi Việt Bắc và Tây Bắc mà trong thơ họ lại đạt dào nỗi nhớ đến thế? Nỗi nhớ trở thành mạch ngưồn cảm xúc cho hai bài thơ Việt Bắc và Tây Tiến, cất lên thành tiếng hát thiết tha mặn nồng mãi ngân vang trong lòng bạn đọc. Đối tượng của nỗi nhớ trong cả hai bài thơ thường chủ yếu xoay quanh đất và người nơi họ nói lời tạm biệt. Ở Tây Tiến, cảnh sắc Tây Bắc hiện lên kì vĩ và khoáng đạt: Sông Mã xa rồi, Tâu Tiến ơi! Nhớ uề rừng núi nhớ chơi oơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường LÁt hoa ề trong đêm hơi Mở bài: Giới thiệu và dẫn đất về hai tác giả, tác phẩm và đối tượng cần so sánh. Chỉ ra và phân tích điểm giống trong tiêu chí đầu tiên của phép so sánh hai đối tượng. 261 ======= PAGE 263 ======= Nét hùng vĩ, nên thơ đó ta cũng bắt gặp trong bức tranh Việt bắc mà nhà thơ Tố Hữu đã viết nên thông qua những địa danh cụ thể: Ai tê ai có nhớ không? Ta 0Ề ta nhớ Phú Thông, dèo Giàng. Nhớ sông Lâ, nhớ phố Ràng Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà... Song, thiên nhiên ở Tây Bắc qua góc nhìn của nhà thơ Quang Dũng đường như ẩn chứa những mối nguy hiểm của một chốn rừng thiêng nước độc: Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người Quang cảnh trong Việt Bắc lại có phần dịu dàng, đằm thắm, Chỉ ra và phân tích điểm khác trong tiêu chí đầu chan chứa tình cảm của con người nơi đây: Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương tiên của phép so sánh hai đối tượng. Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khua bếp lửa người thương đi tề. Có thể nói, cảnh và người ở Việt Bắc mang thiên hướng hài hòa, con người và thiên nhiên nơi đây có sợi dây giao kết, không thể tách rời. Thiên nhiên đem tới đời sống ấm no cho con người, ngược lại con người trong mối quan hệ ứng xử với thiên nhiên cũng dịu dàng và gắn bó vô cùng. Người đọc được đi qua hai vùng không gian khác nhau, nơi Việt Bắc - nơi Tây Bắc, tuy nhiên ta dường như vẫn nhầm lẫn bởi sự giống nhau của cả hai, bởi đều là hai nơi vừa hùng vĩ, tráng lệ vừa nên thơ, ngọt ngào. Nỗi nhớ còn gieo rắc trong lòng độc giả hình bóng về con người ở hai miền đất này. Ở Tây Tiến, tác giả Quang Dũng ấn tượng hơn cả với hình ảnh “em” trở đi trở lại trong bài thơ, đại diện cho nhân dân nơi đây: 262 ======= PAGE 264 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Nhớ ôi Tâu Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Đà: Doanh trại bừng lên hội đuốc, loa Kìa em xiêm áo Hự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc uề Viên Chăn xâu hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấ Có thấu hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ đáng người trên độc mộc Những chàng lính trẻ trong bình đoàn Tây Tiến quyến luyến | Chỉ ra và phân trước vẻ đẹp tâm hồn đầy dịu dàng, thơm thảo của nhân dân Tây | tích điểm khác Bắc. Họ cùng đắm say trong đêm lửa trại, chung vui với nhau để trong tiêu chí xoa dịu những mệt mỏi sau một chặng đường hành quân dài dằng Í thứ hai của phép dặc, vượt qua biết bao núi đèo trắc trở. Hình ảnh “dáng người trên | so sánh hai đối độc mộc” đã in hẳn trong tâm trí họ về một đáng hình thân thương tượng. mà nay đã thật xa vời. Trong khi đó, người ra đi ở bài thơ Việt Bắc lại khắc khoải trong lòng những ân tình, thủy chung của con người luôn mang màu áo chàm giản dị, thân thương: Thương nhau, chía củ sẵn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Nhớ người mẹ nắng cháu lưng Địu con lên rẫu, bé từng bắp ngô. Nhớ sao lớp học ï tờ Đồng khuua đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày thắng cơ quan Gian nan đời uẫn ca oane núi đòo. Nhớ sao tiếng mỗ rừng chiều Châu đêm niên cối đều đều suối xa... 263 ======= PAGE 265 ======= Hình ảnh con người trong nỗi nhớ ở bài thơ này so với Tây Tiến có vẻ được khắc họa một cách rõ nét hơn. Họ chăm sóc, san sẻ cho người lính từng miếng cơm, manh áo. Người mẹ miền núi bỗng nhiên trở thành “người mẹ” của nhiều chiến sĩ. Những lớp học bình dân học vụ, những buổi liên hoan, những hôm thư thả ngắm núi rừng lúc chiều tàn luôn thắm đượm linh hồn người dân nơi đây. Chẳng vậy mà nhà thơ Tố Hữu đã chuyển hóa ngòi bút của mình thành một cây vẽ, phác họa lên bức tranh tứ quý để khắc tạc vẻ đẹp của cảnh và người nơi Việt Bắc thân yêu: Th UỀ, mình có nhớ ta Th Uề, tq nhớ những hoa cùng người. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đào cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang. Vừ kêu rừng phách đổ uàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chưng. Tựu chung lại, nỗi nhớ về con người và thiên nhiên ở những | Kết bài: Nêu kết vùng đất đã trôi xa trong hai thi phẩm trên có những điểm giống và | quả so sánh và khác. Cả hai bài thơ đã đóng góp phần lớn giá trị vào kho tàng văn | khẳng định lại học nước nhà, đặc biệt là văn học thời chiến và sẽ mãi mãi lưu dấu | giá trị của hai đối trong lòng bạn đọc về khúc ca đắm say của nỗi nhớ. tượng. 204 ======= PAGE 266 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Câu 2: Em có thấy cách triển khai các luận điểm, luận cứ của bài mẫu hợp lí hay không? Nếu được chỉnh sửa và biên tập, em sẽ thay đổi điều gì? Học sinh vận dụng kĩ năng viết bài văn so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ ở trên để đưa ra ý kiến cá nhân của mình về cách triển khai của bài văn mẫu. ® Em thấy cách triển khai các luận điểm, luận cứ của bài mẫu khá hợp lí tuy nhiên chưa toàn diện, đầy đặn, còn hơi sơ sài. s_ Nếu được quyền chỉnh sửa và biên tập, em sẽ: « Thêm phần so sánh hình thức nghệ thuật của hai tác phẩm trong việc diễn đạt và truyền tải nỗi nhớ. ® Thực hiện thao tác phân tích (cả về nội dung và nghệ thuật) nhiều hơn ở mỗi luận điểm, tiêu chí so sánh. Câu 3: Ở bài làm mẫu, người viết có trình bày thiếu hoặc chưa đủ thông tin nào được đề cập trong dàn ý hay không? Hãy bổ sung thêm nếu có. »_ So với phần kĩ năng và dàn ý ở bên trên, bài viết mẫu này đường như thiếu phần chỉ ra yếu tố, phương tiện dẫn tới những điểm gặp gỡ và khác biệt của hai bài thơ với đối tượng là nỗi nhớ. «_ Để toàn diện hóa và tối ưu được lập luận cũng như gia tăng thêm sức thuyết phục cho bài văn, ta cần tìm và nêu ra những lí do đằng sau đã tạo nên điểm giống và điểm khác của hai bài thơ đó. Ví dụ: Giống nhau: Vì cùng thuộc giai đoạn văn học 1945 - 1975 vậy nên cả hai bài thơ cùng chịu ảnh hưởng và chỉ phối bởi khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn => nỗi nhớ mang nặng về hình tượng người lính, tình cảm quân dân và những vùng đất cách mạng. Khác nhau: » Hoàn cảnh sáng tác: “Việt Bắc” viết sau sự kiện tháng 10 năm 1954, các cơ quan trung ương của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Trong khi đó, “Tây Tiến” viết ở Phù Lao Chanh khi tác giả đã tới đơn vị mới để công tác cách mạng. » Xuất thân: Tố Hữu vừa là nhà thơ vừa là nhà hoạt động cách mạng từ khi còn rất 265 ======= PAGE 267 ======= trẻ, vậy nên thơ ông thường là khúc hùng ca tán dương về con đường sự nghiệp của Đảng ta. Còn Quang Dũng là một tâm hồn hào hoa, gác lại ước mơ trên giảng đường để cầm súng lên đường chiến đấu nên thơ ông phóng khoáng, lãng mạn, tươi trẻ. © Phong cách sáng tác: Tố Hữu gây ấn tượng với thứ ngôn ngữ thơ mang đậm đà tính dân tộc (thể thơ, cấu tứ, cách dùng từ,...). Đối với Quang Dũng, thơ ông lại độc đáo bởi âm hưởng bi tráng, ngang tàng. E. LUYỆN TẬP I. Đọc văn bản, trả lời câu hỏi PHẦN NỘI DUNG Đối tượng trữ tình: Thế hệ trẻ trong công cuộc giữ nước. Cảm xúc chủ đạo: Ngợi ca, trân trọng tính thân của lớp trẻ trước sự lâm nguy của Tổ quốc. Biện pháp ẩn dụ: “cỏ” tượng trưng cho những khó khăn thử thách mà các chiến sĩ trẻ đang phải đối mặt. Tác dụng: ° Về mặt nội dung: Nhấn mạnh những gian truân, vất vả trên chặng đường hành quân của những người lính trẻ; đồng thời thể hiện sự cảm thông, khích lệ của tác giả đối với thế hệ trẻ lúc bấy giờ. * - Về mặt nghệ thuật: Tăng sức gợi liên tưởng, tưởng tượng cho câu thơ; làm cho lời thơ sinh động, thi vị hơn. Học sinh lập sơ đồ tư duy theo quan điểm và góc nhìn của mình. (Gợi ý) Hình tượng người lính ở khổ 2 mang nét đẹp ban sơ của tuổi trẻ: căng tràn sức sống nhưng còn non nớt, nhiều suy tư, băn khoăn về con đường phía trước. Hình tượng tuổi trẻ ở khổ 3 có phần gan dạ, sắt đá, thể hiện niềm tin mãnh liệt hơn vào tương lai phía trước. +> Hai đặc điểm này không khác biệt, trái ngược mà bổ sung, đan quyện vào nhau tạo nên bức chân dung toàn diện, đầy đủ nhất về thế hệ trẻ trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước: trẻ người nhưng trái tim ngoan cường và lòng dạ sắt đá tin vào lí tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. 266 ======= PAGE 268 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Hộọc sinh dựa vào nội dụng và nghệ thuật của ba câu thơ, từ đó dựa trên chủ kiến và lăng kính của mình để rút ra mối quan hệ giữa cá nhân với đất nước. (Gợi ý) Hình tượng người lính trẻ trong ba câu thơ gợi lên rõ tỉnh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh“. Họ vừa ý thức được tuổi trẻ, giấc mơ, khát vọng cá nhân của mình, vừa tri giác được sứ mệnh thiêng liêng của mình đối với đất nước. Câu hỏi ở cuối “Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chỉ Tổ quốc?” hóa thành một câu hỏi tụ từ, lớp lớp người trẻ ấy không còn băn khoăn đi tìm câu trả lời cho cá nhân mà đặt niềm tin vào sự chiến đấu và chiến thắng quân thù của cả dân tộc. a. Xác định yêu cầu kiểu bài s Học sinh viết đúng cấu trúc bài văn: Mở bài giới thiệu được vấn đề nghị luận, Thân bài triên khai được vấn đề nghị luận, Kết bài khẳng định lại vấn đề nghị luận. * Viết đúng dung lượng yêu cầu: 600 chữ (+/- 10%) (Kiểu bài: Viết bài văn so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ) b. Xác định đúng trọng tâm So sánh về hình tượng thế hệ trẻ qua hai bài thơ “Giá từng thước đất” của Chính Hữu và “Khoảng trời, hố bom” của Lâm Thị Vỹ Dạ. c. Triển khai vấn đề nghị luận ø Học sinh lựa chọn hệ thống luận điểm phù hợp để thực hiện, có thể theo gợi ý như sau: s Bàn luận khái quát về đối tượng so sánh: Hình tượng thế hệ trẻ trước bối cảnh lâm nguy của Tổ quốc. se Chỉ ra và phân tích điểm tương đồng và điểm khác biệt của hình tượng thế hệ trẻ trong hai bài thơ về mặt nội dung: s Người lính trong “Giá từng thước đất”: ở tuyến đầu đánh giặc, tình cảm đồng đội,... s Lớp trẻ trong “Khoảng trời, hố bom”: nhiệm vụ mở đường, nữ thanh niên xung phong tươi trẻ, anh dũng,... e Chỉ ra và phân tích điểm gặp gỡ và điểm ngoại biên của hình tượng thế hệ trẻ trong hai bài thơ về mặt hình thức nghệ thuật (hình tượng nghệ thuật, giọng điệu, cách sử dụng và tổ chức ngôn từ,...) ® Lí giải căn nguyên, ngưồn gốc của sự giống và khác nhau đó (giai đoạn văn học, hoàn cảnh sáng tác, phong cách sáng tác, quan điểm nghệ thuật,...) 267 ======= PAGE 269 ======= s Khẳng định được giá trị của việc so sánh, đánh giá. d. Đảm bảo yêu cầu sau s Triển khai được ít nhất 02 luận điểm để làm sáng tỏ vấn đề. e Trình bày vấn đề một cách rõ ràng, thuyết phục, có sử dụng đan xen phân tích, đánh giá và cảm nhận, có dẫn chứng kèm theo. s Sử dụng lý lẽ, dẫn chứng xác đáng, thuyết phục; sắp xếp các ý một cách logic, hợp lý, rõ ràng, đảm bảo tính mạch lạc. đ. Chính tả, ngữ pháp Học sinh cần đảm bảo chính tả, ngữ pháp, liên kết câu, đoạn. e. Sáng tạo Học sinh có những ý tưởng sâu sắc, có cách điễn đạt phong phú, sinh động, mới mẻ. a. Xác định đúng cấu trúc đoạn văn Học sinh viết có cách trình bày đoạn văn phù hợp: diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp. - Viết đúng dung lượng yêu cầu: 300 chữ (+/- 10%) b. Xác định đứng trọng tâm Bàn luận về một bài học bất kì có ý nghĩa với bản thân sau khi tiếp nhận bộ phim “Mùi cỏ cháy”. Có thể rút ra những bài học như sau: lòng đũng cảm, tinh thần vượt khó trong thời chiến, tình yêu trong thời chiến, sứ mệnh của thế hệ trẻ với đất nước ,... (Kiểu bài: Nghị luận về một vấn đề được đặt ra trong tác phẩm nghệ thuật) c. Triển khai vấn đề nghị luận Học sinh triển khai thành các ý phù hợp để làm sáng tỏ vấn đề, có thể theo hướng như sau: Sứ mệnh của người trẻ đối với Tổ quốc trong thời đại mới. - Nhận thức rõ trách nhiệm của mình (“Tuổi nhỏ làm việc nhỏ”) - Không ngừng nâng cấp, phát triển bản thân một cách toàn diện về tâm (phẩm chất tốt đẹp: yêu nước, thương người, đoàn kết, ...); trí (trí thức, ngoại ngữ, khả năng ứng dụng công nghệ, ....); lực (sức khỏe thể chất). - Lan tỏa tỉnh thần trách nhiệm tới mọi người (truyền thông, giáo dục, ...) ======= PAGE 270 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? đ. Đảm bảo yêu cầu sau - Triển khai được ít nhất 02 lý lẽ để làm sáng tỏ vấn đề, - Trình bày vấn đề một cách rõ ràng, thuyết phục, có sử dụng dẫn chứng minh hoạ phù hợp (có thể là dẫn chứng trong tác phẩm “Mùi cỏ cháy” hoặc dẫn chứng thực tế bên ngoài). - Sử dụng lý lẽ, dẫn chứng xác đáng, thuyết phục; sắp xếp các ý một cách logic, hợp lý, rõ ràng, đảm bảo tính mạch lạc. đ. Chính tả, ngữ pháp Học sinh cần đảm bảo chính tả, ngữ pháp, liên kết câu, đoạn. e. Sáng tạo Học sinh có những ý tưởng sâu sắc, có cách diễn đạt phong phú, sinh động, mới mẻ. BÀI 03: CHẠM VÀO THẾ GIAN RỰC RỠ B. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN BẢN 1: XỨ TUYẾT (trích) Katuabata Câu 1: Ngôi kể: ngôi kể thứ ba Điểm nhìn trần thuật: hạn tri, nửa trực tiếp Câu 2: Học sinh có thể căn sứ vào các yếu tố sau để có thể xác định một văn bản có yếu tố lãng mạn: « _ Ngôn ngữ: Ngôn ngữ được sử dụng một cách mềm mại, nhẹ nhàng, thơ mộng, Cách diễn đạt đậm chất văn chương, giàu tính thẩm mỹ. © Hinhảnh: giàu chất thơ, giàu hình tượng. » _. Cách xây dựng cốt truyện: Đào sâu vào nêu bật nội tâm và cảm xúc của nhân vật. (...) Qua văn bản trên, học sinh có thể xác định một số yếu tố như sau: 2á9 ======= PAGE 271 ======= « Cốt truyện: khai thác nội tâm của nhân vật (những cảm nhận của nhân vật với thiên nhiên và với chính tình huống của mình); khai thác hình ảnh thiên nhiên đẹp đế, thơ mộng, đượm buồn. e _. Ngôn ngữ: ngôn ngữ nhẹ nhàng, giàu tính văn chương. « _ Sử dụng nhiều chất liệu để làm nên tác phẩm. s» _ Nhân vật: nhân vật đời thường, có xúc cảm đa đạng, có giằng xé nội tâm,... (...) Câu 3: e _ Thiên nhiên mang đậm phong cách Nhật Bản. e _ Thiên nhiên trữ tình, thơ mộng e __ Thiên nhiên gợi cảm xúc, đượm buồn. Câu 4: 1. Dòng suy nghĩ về Yoko: Shimamura có những cảm nhận đặc biệt về giọng hát của Yoko: giọng hát của Yoko gợi đến những cô gái xa xưa thường hát trong lúc tắm và dệt vải. => Giọng hát của Yoko, trong con mắt của Shimamura, mang vẻ đẹp đời thường, nhưng vô cùng trong trẻo, hài hoà. 2. Dòng suy nghĩ về Komako: Komako, gắn bó với anh khá mãnh liệt với vẻ tươi tắn của tâm hồn và sự cuồng nhiệt gợi cảm của thể xác cô Cảm giác ngờ vực về tình yêu giữa mình và Komako. Từ đó, Shimamura muốn từ bỏ mối quan hệ này, muốn được đi đến một nơi khác để tránh mặt cô. 3. Nhận xét về thái độ và tâm lý của nhân vật: Nhân vật Shimamura có một nét tâm lý tương đối phức tạp, thiếu khao khát được gắn kết. Ta có cảm giác nhân vật đang chơi vơi trong sự mông lung của chính mình, không biết mình thật sự muốn gì, nghĩ gì và yêu ai. Ngoài ra, nhân vật này cũng là một người đa sầu đa cảm, có sự nhạy bén, tỉnh tế trong cảm nhận những điều đang diễn ra xung quanh. (.) Câu 5: 1. Học sinh liệt kê những văn hoá nhật bản được sử dụng: 270 ======= PAGE 272 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? « = Kịch koh se Nghề dệt vải chijimi « __ Chuyến xuất hành của các nỉ cô trên núi. 2. Học sinh nêu cảm nhận về phong cách viết của Kawabata: Phong cách giản dị, mộc mạc, gần gũi và đặc biệt truyền đạt được nhiều chất liệu đặc sắc trong văn hoá Nhật Bản. Đọc văn Kawabata, người đọc thấy được cả những nét đẹp, những nỗi buồn trong thiên nhiên và con người; từ đó, ta cảm nhận được tính thẩm mỹ đặc sắc trong các tác phẩm của ông. Câu 6: Học sinh nêu quan điểm của mình về hai nhận định: Đồng tình hay không đồng tình, hoặc cả hai ý kiến đều có những mặt đúng. Nhận định 1: Đồng tình: Vì trong Shimamura suy nghĩ về Yoko và Komako, anh đều có những cảm nhận vô cùng tỉnh tế, sâu sắc về các hành động, thái độ của nhân vật. Điều đó cho thấy rằng anh thật sự để mắt đến hai tình nhân và đều có những cảm xúc say đắm với họ. Nhận định 2: Đồng tình: Vì Shimamura chung quy đã là người có gia đình, và anh đang đem lòng ái mộ cả hai người ca kỹ cùng một lúc. Những cảm nhận của anh cũng không nhất quán, không ổn định vì anh đã bắt đầu chản nản Komako và muốn chấm dứt với anh. Tuy nhiên, nếu nói “không mãnh liệt” thì lại chưa thoả đáng, vì Shimamura vẫn suy nghĩ vô cùng sâu sắc và nghiêm túc và nhân vật. Câu 7: Học sinh viết đoạn văn đảm bảo cấu trúc, đảm bảo nội dung. Có thể theo các ý Sau: s _ Thiên nhiên có vai trò điều hoà các yếu tố về môi trường sống cho con người: khí hậu, thực phẩm, nguồn nước... Không có thiên nhiên, con người không thể duy trì sự tồn tại. ® _. Thiên nhiên là môi trường sống có nhiều loài vật, tạo ra sự đa dạng sinh học, từ đó, duy trì những hoạt động thiết yếu của con người. e _. Thiên nhiên đôi lúc có thể chữa lành những vết thương lòng, tác động tích cực đến xúc cảm của con người. 2n ======= PAGE 273 ======= VĂN BẢN 2 - MẮT SÓI (tích) Daniel Pennac Câu 1: Học sinh dựa vào kiến thức ngữ văn được học trong bài để trả lời. Truyện có kết cấu truyện lồng truyện: trong truyện có câu chuyện của Sói Lam và của cậu bé Phi Châu. Các câu chuyện được thể hiện một cách hợp lý, logic, xâu chuỗi vào nhau, thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Câu 2: 1. Tóm tắt lại tình huống Sói Lam liều mình cứu Ánh Vàng. 2. Nhận xét về tính cách của Sói Lam: s _ Tuy là một con thú nhưng Sói Lam lại có tình cảm thương yêu đồng loại, gia đình như con người. «e = ỞSói Lam có sự dũng cảm, dám xông pha để bảo vệ đồng loại, dùng chính sức mạnh của mình để nâng đỡ cho kẻ yếu hơn. Câu 3: Cách trả lời: Tóm tắt lại phần “Mắt người”. Phi Châu mồ côi cha mẹ, bị một lão Toa đưa đi xa quê hương. Sau đó, Phi Châu bị bán đi cho Vua Dê, bị bắt chăn đàn cừu của lão ta. Sau đó, vì sự quả cảm và thấu hiểu của mình, Phi Châu đã kết bạn được với Báo - một con thú hoang đầu hung dữ. Câu 4: Cách miêu tả Con mắt màu vàng, tròn xoe, chính giữa có một con ngươi màu đen Một con mắt không bao giờ chớp, hệt như một ngọn đèn trong đêm. 22 ======= PAGE 274 ======= Cầu chuyện hiện lên Cảm nhận của em Con mắt càng lúc như càng to hơn, tròn hơn, như một tuần trăng úa trên bầu trời trống trải, và chính giữa, một con người như càng đen hơn, và trong quầng vàng nâu quanh con ngươi, người ta thấy xuất hiện những điểm màu khác nhau, chỗ này là màu lam (xanh như nước đóng băng dưới bầu trời, chỗ kia là một Ha ánh vàng, lấp lánh như trang kim). Câu chuyện Sói Lam cứu gia đình và bị bắt, đưa vào sở thú Đôi mắt sói mang đến cảm giác lạnh lùng, căm phẫn. Tuy vậy, nếu như nhìn sâu vào câu chuyện của Sói Lam, ta sẽ thấy ngọn lửa trong đôi mắt ấy còn là ngọn lửa của lòng quả cảm, dám liều mình để bảo vệ đồng loại. Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Như một ánh sáng vụt tắt. Hoặc cảm giác như một đường hầm bị sập dưới lòng đất. Phải rồi, một đường hầm giống một cải hang cáo mà Sói Lam từng chui vào. Càng vào sâu thì càng mờ mịt. Câu chuyện về quá khứ bất hạnh và hành trình tìm kiếm Hàn Xéng, kết bạn với Báo của Phi Châu. Đôi mắt người được miêu tả ngắn gọn nhưng gợi cảm giác hụt hãng, bế tắc khi kết cục của nó là chìm vào trong bóng tối. Bởi lẽ, trong đôi mắt ấy là cả một câu chuyện đau thương của một cậu bé nhỏ tuổi nhưng vô cùng hiểu chuyện và giàu lòng trắc Ẩn. 3 ======= PAGE 275 ======= Câu 5: 1. Học sinh đọc ngữ liệu và tìm những thông tin về thái độ của cậu bé Phi Châu với lạc đà, sư tử và Báo. 2. Học sinh nêu cảm nhận về nhân vật cậu bé Phi Châu: Câu bé Phi Châu tuy nhỏ tuổi, trả qua tuổi thơ không êm đẹp nhưng lại có niềm yêu thương động vật mãnh liệt. Đối với cậu bé, những con vật ấy không vô tri mà như những người bạn đồng hành cùng cậu trong suốt quãng thời gian tuổi thơ. Cậu bé Phi Châu hiểu chuyện, luôn nhìn cuộc đời bằng lăng kính tích cực, đâu đó còn có sự sâu sắc, bởi cậu nhận ra cả Báo và bản thân mình đều có khao khát được kết bạn, được yêu thương. Câu 6: Học sinh có thể đánh giá, cảm nhận ở các phương diện sau: » Nghệ thuật xây dựng câu chuyện: cốt truyện, hệ thống nhân vật, cách kể (tuyến tính, phi tuyến tính, ...), tình huống truyện, ... ©_ Nghệ thuật kể chuyện: sử dụng ngôi kể, điểm nhìn trần thuật. s _ Ngôn ngữ, hình ảnh truyện. s _ Các biện pháp nghệ thuật đặc thù: nhân hoá, ẩn dụ, so sánh,... () Câu 7: Học sinh lựa chọn thông điệp và lý giải thông điệp ấy. Có thể trả lời theo hướng như sau: s® Nêu thông điệp. ® Lý giải vê thông điệp. s Nêu tác động của thông điệp đến bản thân. Gợi ý một số thông điệp: s Thông điệp về tình yêu. s Thông điệp về lòng vị tha. » Thông điệp về sự dũng cảm, dám dấn thân. » Thông điệp về sự tích cực trong cuộc sống. (...) 23⁄4 ======= PAGE 276 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? C. TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH Bài 1: a. Ngôn ngữ thân mật Lý do: e Sử dụng cách diễn đạt gần gũi, mộc mạc « Sử dụng các tình thái ngữ “Trời ơi”, “muốn chết” » Sử dụng các phương ngữ, khẩu ngữ. b. Ngôn ngữ thân mật Lý do: se Đoạn văn có các câu đối thoại giản dị, mộc mạc trong đời sống thường ngày của con người. se Sử dụng các tình thái từ, thán từ,... s_ Văn phong mang tính khẩu ngữ, ngữ pháp được tỉnh gọn. c. Ngôn ngữ trang trọng Lý do: e Sử dụng các từ ngữ mang sắc thái trạng trọng, những từ ngữ mang tính chuyên LƯNG, 1y, ngành, học thuật: “đối tượng”, “nghiên cứu”, “nội quan”,... ® Ngữ pháp chính xác, câu cú phức tạp. s _ Ngữ cảnh câu văn mang tính trang trọng. d. Ngôn ngữ trang trọng Lý do: «_ Ngữ cảnh câu văn mang tính trang trọng: Lời mở đầu các sự kiện, hoạt động, đối tượng: thầy cô, toàn thể học sinh, ... © Từngữ mang tính nghiêm túc: “long trọng chào mừng”. Bài 2: Học sinh viết thư theo yêu cầu của từng phần, chú ý ngôn ngữ trang trọng và thân mật khi viết: a. Hãy viết một lá thư để xin vào vị trí thực tập sinh ngành marketing ở một công ty thương mại quận Hoàn Kiếm + Ngôn ngữ trang trọng 275 ======= PAGE 277 ======= c. Hãy viết một lá thư để chia sẻ với người bạn ở miền Nam của mình về chuyến đi vịnh Hạ Long vừa qua. > Ngôn ngữ thân mật c. Bạn đã đặt ở trên sàn thương mại điện tử một quyển sách. Nhưng khi nhận về, sách lại bị móp và hỏng bìa. Hãy viết một lá thư trình bày tình trạng sách với cửa hàng phân phối và yêu cầu được đổi trả.> Ngôn ngữ trang trọng L, 4 D. VIET II. Đọc ngữ liệu tham khảo và trả lời câu hỏi Câu 1: Học sinh đọc kĩ bài tham khảo để phân tích được các thao tác của người viết. Cọợi ý: “Đời thừa” của Nam Cao và “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu đều là hai tác phẩm tiêu biểu viết về sự mâu thuẫn, đấu tranh trong thâm tâm của những con người trí thức, có khả năng sáng tạo nghệ thuật nhưng cũng chính vì nghệ thuật mà rơi vào bị kịch. Thông qua hai tác phẩm, người đọc dễ dàng cảm nhận được rõ nét điểm tối của những con người được xã hội tôn vinh là có học thức, có tài năng vượt trội. Tuy được viết ở hai thời điểm khác nhau, song cả hai tác phẩm đều đề cập tới một vấn đề nhức nhối trong xã hội: con người sẽ bị tha hoá khi rơi vào bị kịch. Cả nhân vật Hộ và nhân vật người hoạ sĩ đều là những người nghệ sĩ có khát vọng nghệ thuật cao đẹp, đó là sáng tạo ra những tác phẩm có ích cho đời, để lại những rung cảm mạnh mẽ trong lòng người thưởng thức nó. Nhưng biến cố đã ập đến khiến họ phải tự huỷ hoại đạo đức nghề nghiệp cao cả của mình. Hộ vì đèo bòng thêm Từ và con của cô nên phải viết ra những thứ văn đở tệ, đọc xong rồi sẽ quên ngay; còn người hoạ sĩ vì cái lợi trước mắt mà đã quên đi lời hứa của mình, đẩy một gia đình khó khăn vào tình cảnh bị đát, khiến người mẹ già khóc đến mù mắt vì nghĩ con mình đã tử trận trên sa trường. 170 Đoạn 1 (MB): Giới thiệu hai tác phẩm và nêu cơ sở của sự so sánh. Đoạn 2: So sánh điểm giống giữa hai tác phẩm về đề tài so sánh. ======= PAGE 278 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rõ bao nhiêu? Nhìn chung, cả hai tác phẩm đều đề cập đến những mặt tối của con người - dù cho đó là những con người có học thức. Cà hai nhà văn đều chứng mình cho ta thấy rằng: “Bên trong mỗi con người luôn tồn tại những nghịch lý, những sự hoà trộn giữa rồng phượng và rắn rết.”” Không chỉ có vậy, cả Nguyễn Minh Châu và Nam Cao đều thể hiện vai trò xuất sắc của một nhà nhân đạo khi đã cho nhân vật của mình một con đường để hối lỗi, mặc dù hậu quả họ gây ra đã không còn có thể sửa chữa được nữa. Về mặt nghệ thuật, cả hai truyện ngắn đều tạo ấn tượng đặc biệt bởi thủ pháp xây dựng tâm lý nhân vật độc đáo, lô-gích; ngoài ra, còn có những tình huống truyện độc đáo, khiến cho nhân vật thay đổi nhận thức, hành động. Tuy gặp gỡ ở nhiều điểm nhưng cả hai nhà văn đều có riêng cho mình một hướng đi độc lập, đúng như một nhà thơ Lê Đạt từng nhận định: Mỗi công dân đều có một dạng vân tay. Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ. Trước hết, cả hai nhà văn đều khiến nhân vật của mình rơi vào bị kịch khi gặp phải những mâu thuẫn. Tuy vậy, mâu thuẫn trong “Đời thừa” lại là mâu thuẫn mang tính chất ngoại cảnh, còn mâu thuẫn trong “Bức tranh" dường như lại xuất phát từ bên trong nội tại của nhân vật. Trong truyện ngắn “Đời thừa”, Hộ rơi vào bị kịch theo một lô- gích thường thấy của văn học hiện thực trước cách mạng: Áp lực cơm áo gạo tiền; gánh nặng cuộc sống; buông bỏ ước mơ; trở thành người mà mình chán ghét. Vì vậy, nếu như cuộc sống khấm khá hơn, bớt chật vật hơn; nhân vật Hộ sẽ không rơi vào bị kịch, sẽ trở thành một nhà văn tài ba, một người chồng, người cha mẫu mực. Đoạn 3: Đoạn văn chuyển tiếp luận điểm (Học sinh có thể gộp đoạn này vào đoạn 4) Đoạn 4: Sự khác biệt thứ nhất: Tính chất mâu thuẫn trong bị kịch hai nhân vật. 17? ======= PAGE 279 ======= Ngược lại, truyện ngắn “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu lại khai thác mâu thuẫn trong nội tại, tức là không có một ngoại cảnh nào điều khiển số phận người hoa sĩ, tất cả là do sự ích ki, vô trách nhiệm, ham danh vọng của ông đã khiến ông bội ước. Cuối cùng, đó là tác phẩm duy nhất giúp ông nổi tiếng, cũng là bằng chứng duy nhất tố cáo bộ mặt giả dối của ông khi ông đối diện với chính mình và bức tra- nh mình đã vẽ trong tiệm cắt tóc. Có thể thấy, văn học thời kì hậu chiến quan tâm nhiều hơn đến những sự dao động trong tâm thức của con người, để chứng minh rằng không một cá thể nào tôn tại là hoàn toàn đơn giản, hiền lành, vô tội. Còn văn học hiện thực trước cách mạng lại có xu hướng phê phản những yếu tố bên ngoài như xã hội, chế độ, cái đói, cái nghèo,... Chính vì sự khác nhau trong việc khai thác mâu thuẫn (bên trong, bên ngoài) đã ảnh hưởng đến cách hai nhà văn lựa chọn điểm nhìn và phong cách kể chuyện của mình. Để khắc hoạ mâu thuẫn bên ngoài, không một điểm nhìn nào phù hợp hơn điểm nhìn ngôi thứ ba, và nhà văn Nam Cao cũng đã sử dụng rất tốt điểm nhìn hạn tri để làm cho tâm lý của nhân vật Hộ vừa được hiện lên rõ nét, song cũng có những cảm nhận, đánh giá khách quan riêng của người kể chuyện. Còn ở truyện ngắn “Bức tranh”, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã lựa chọn kể theo góc nhìn thứ nhất “tôi”, nhờ đó mà sự đấu tranh nội tâm của nhân vật chính càng được thể hiện rõ nét hơn cả. Về tình huống truyện, có thể thấy tình huống mà Nam Cao xây dựng trong câu chuyện đi theo mô-típ phổ biến của văn học trước cách mạng: có hoài bão, nhưng gặp rào cản, rơi vào bi kịch, cảm thấy ân hận. Mặt tối của người tri thức thể hiện qua cách anh đối diện bất thành với khó khăn trước mắt, anh khiến Từ và các con khổ, mà chính anh cũng khổ. 278 Đoạn 5: Sự khác nhau trong nghệ thuật kể chuyện. Đoạn 6: Sự khác nhau trong nghệ thuật kể chuyện ======= PAGE 280 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Vì vậy, khi chứng kiến Từ nằm trên chiếc đõng với vẻ khắc khổ, tội nghiệp; Hộ đã cảm thấy ân hận, xúc động mà khóc như một đứa trẻ. Ngược lại, truyện ngắn “Bức tranh” lại khắc hoạ một tình huống hết sức độc đáo: người hoạ sĩ vào đúng tiệm cắt tóc của người chiến sĩ năm xưa, nhìn thấy bức tranh mình vẽ anh ta đang treo, nhìn thấy chính mình trong gương, đau khổ. Không một ai chà đạp, không một tác nhân nào khiến ông đau đớn; người chiến sĩ năm xưa không nói gì, nhưng cái điềm tĩnh ấy càng khiến người hoạ sĩ trở nên xấu hổ, đau đớn; vì nội tâm của ông vốn đĩ chẳng còn bình an nữa. Người chiến sĩ ấy có thể tha thứ cho ông, nhưng ông sẽ không bao giờ tha thứ cho chính mình, khi biết rằng mình đã gây ra những hậu quả gì cho cuộc đời của người khác. Ở đây, mặt tối của người tri thức lại là đánh mất chính mình, đánh mất những thiên lương cao đẹp và làm cho những đứa con tỉnh thần của mình trở nên vô cùng xấu xa, phi đạo đức. Nhân vật Hộ trong “Đời thừa” mang dáng dấp của một người tri thức tiểu tư sản, nhân vật người hoạ sĩ trong “Bức tranh” lại là con người của thời đại mới. Dẫu vậy, cả hai người họ cho chúng ta thấy được một chân lý: không ai là hoàn hảo, kể cả những người làm nghệ thuật. Đó là một điều không thể nào chối cãi, và cũng là một trăn trở, day dứt mà bất kể người nghệ sĩ chân chính nào, dù ở thời đại trước hay thời đại sau, đều khao khát được lý giải, được làm rõ để gửi gắm đến bạn đọc những bài học “trông nhìn và thưởng thức” (Thạch Lam) Tóm lại, truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao và “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu đều cho chúng ta cảm nhận được những góc khuất đằng sau con người. Thông qua đó, người đọc có thể tự rút kinh nghiệm để hoàn thiện chính mình, vươn đến một cuộc sống ý nghĩa, trọn vẹn hơn. Đánh giá chung giá trị của hai khía cạnh cần So sánh. Khẳng định lại giá trị chung của hai tác phẩm trong việc thể hiện vấn đề nghị luận. 279 ======= PAGE 281 ======= Cũng chính bởi những thông điệp còn nóng hổi giá trị nên cả hai tác phẩm, dù đã ra đời ở thế ki trước, vẫn còn được bạn đọc đón nhận một cách tích cực, nồng nhiệt cho đến tận ngày nay. Câu 2: Trong thân bài, người viết sử dụng ba luận điểm chính: LĐI: Chỉ ra điểm giống. LĐ2: Chỉ ra điểm khác biệt (Trong luận điểm này sẽ có nhiều hơn một luận cứ để làm rõ cho vấn đề). L3: Đánh giá chung lại giá trị của hai chỉ tiết cần so sánh. Câu 3: Học sinh đề xuất một cách triển khai luận điểm khác cho đề bài trên. Phân tích tác phẩm 1 Chỉ ra điểm giống Chỉ ra điểm khác Dùng tác phẩm 2 để so sánh với tác phẩm một. Từ đó, chỉ ra điểm giống và khác. E. LUYỆN TẬP Ngôi kể của truyện ngắn: ngôi thứ nhất. Thông qua đó, tâm lý của nhân vật “em” được thể hiện một cách TÕ nét. Cốt truyện: đa tuyến. Căn cứ vào việc có hai cuộc đời nhân vật được kể song song nhau (Cuộc sống vợ chồng Nhàn và cuộc sống vợ chồng của “em”) Bi kịch của Nhàn: Mất con, bị chồng lạnh nhạt, thường xuyên đốt phá nhà cửa. Bi kịch của “Em”; Chồng yêu người khác, bị chồng lạnh nhạt, ruồng bỏ. > Điểm giống: Bi kịch của một người vợ yêu thương chồng nhưng lại có cuộc sống hôn nhân lận đận, bẽ bàng, bị chồng xa lánh, lạnh nhạt. 280 ======= PAGE 282 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Học sinh có thể đồng tình hoặc không đồng tình hoặc một phần đồng tình. Đồng tình vì: Đáng thương vì: Tam cũng là một người cha vừa mất con, nỗi khổ chồng chất, không thể tìm một lối thoát cho mình nên mới tìm đến bạo lực và đốt phá. Đáng trách vì: Tam trút hết cơn giận vào vợ mình - một người vốn dĩ cũng rất đau khổ và tội nghiệp. Tam đã lựa chọn một con đường tăm tối, bế tắc, khiến bị kịch ngày càng kéo đài, chồng chất. Học sinh xem phim và so sánh đựa trên cảm nhận của mình. a. Yêu cầu kiểu bài đề nghị luận, Thân bài triển khai được vấn đề nghị luận, Kết bài khẳng định lại vấn đề nghị luận. - Viết đúng dung lượng yêu cầu: 600 chữ (+/- 10%) Kiểu bài: Viết bài văn đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm b. Xác định đúng trọng tâm Đặc trưng về nội dung và nghệ thuật trong đoạn trích “Xứ tuyết” của Kawabata. c.Triển khai vấn đề nghị luận Học sinh lựa chọn hệ thống luận điểm phù hợp để thực hiện, có thể theo hướng như sau: LĐI: Giá trị nội dung s Thể hiện rõ nét thiên nhiên Nhật Bản nơi lạnh giá (Phân tích cụ thể hơn kèm dẫn chứng). s. Khắc hoạ rõ nét những truyền thống văn hoá Nhật Bản. ©- Khai thác nét tâm lý của nhân vật chính - Shimamura - khi nghĩ đến thiên nhiên lẫn con người (Phân tích cụ thể hơn kèm dẫn chứng). LĐ2: Giá trị nghệ thuật ®© Nghệ thuật xây dựng truyện và kể chuyện: ngôi thứ ba toàn trị, cốt truyện đơn tuyến,... ® - Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật: tâm lý nhân vật hiện lên vô cùng phức tạp, với nhiều cảm xúc, cung bậc khác nhau. 281 ======= PAGE 283 ======= ® Nghệ thuật dùng từ ngữ: nhẹ nhàng, giàu hình ảnh và giàu cảm xúc. e© Các biện pháp nghệ thuật khác: so sánh, điệp ngữ, ẩn đ. Viết bài văn đảm bảo yêu cầu sau s Triển khai được ít nhất 02 luận điểm để làm sáng tỏ vấn đề. Trình bày vấn đề một cách rõ ràng, thuyết phục, có sử dụng đan xen phân tích, đánh giá và cảm nhận, có dẫn chứng kèm theo. Sử dụng lý lẽ, dẫn chứng xác đáng, thuyết phục; sắp xếp các ý một cách logic, hợp lý, rõ ràng, đảm bảo tính mạch lạc. đ. Chính tà, ngữ pháp Học sinh cần đảm bảo chính tả, ngữ pháp, liên kết câu, đoạn. e. Sáng tạo Học sinh có những ý tưởng sâu sắc, có cách diễn đạt phong phú, sinh động, mới mẻ. Học sinh tự nêu cảm nhận về bộ phim. Nhắc lại dàn ý: Mở đoạn: Giới thiệu được phim “Intouchables”. Thân đoạn: Học sinh có thể nêu cảm nhận theo hướng sau: s Nêu cảm nhận về giá trị nội dung © Nêu cảm nhận về giá trị nghệ thuật Kết đoạn: Khẳng định lại một lần nữa giá trị của bộ phim với em. a. Xác định đúng cấu trúc đoạn văn Học sinh viết có cách trình bày đoạn văn phù hợp: diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp. Viết đúng dung lượng yêu cầu: 200 chữ (3/- 10%) b. Xác định đúng trọng tâm Giá trị của những chuyến đi. (Kiểu bài: Nghị luận về 1 vấn đề được đặt ra từ tác phẩm văn học) c. Triển khai vấn đề nghị luận Học sinh triển khai thành các ý phù hợp để làm sáng tỏ vấn đề, có thể theo hướng như sau: ======= PAGE 284 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Những chuyến đi trong cuộc sống sẽ giúp cho ta có thêm nhiều kinh nghiệm, trải nghiệm, từ đó có thể phát triển bản thân. Ngoài ra, những chuyến đi còn làm cho cuộc sống của ta trở nên muôn màu muôn vẻ, bởi lẽ ta chỉ thật sự có thể định nghĩa bản thân nếu như ta chấp nhận dấn thân, chấp nhận trải nghiệm... đ. Chính tả, ngữ pháp Học sinh cần đảm bảo chính tả, ngữ pháp, liên kết câu, đoạn. e. Sáng tạo Học sinh có những ý tưởng sâu sắc, có cách diễn đạt phong phú, sinh động, mới mẻ. e. Sáng tạo Học sinh có những ý tưởng sâu sắc, có cách diễn đạt phong phú, sinh động, mới mẻ. BÀI 04: THEO NHỮNG DẤU CHÂN NGƯỜI B. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN BẢN1 - : TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP Hồ Chí Minh Câu 1: 1. Bác đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ làm cơ sở pháp lí: ©_ Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ (1776) » Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1791) 2. Bác trích dẫn những bản Tuyên ngôn ấy vì: » Từ công nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” là sự khẳng định một cách hùng hôn chân lí thời đại: Độc lập, Tự đo, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ. « Đây không chỉ là sự khẳng định chắc nịch của Bác với toàn dân mà còn là với tất cả các nước khác.Đặt trong bối cảnh lịch sử khi thế chiến thứ II vừa kết thúc, việc Bác trích lại những lời trong Tuyên ngôn của các nước xâm lược vừa có hàm ý mỉa mai, vừia tranh thủ được sự đông tình của dư luận tiến bộ , nhất là các nước trong phe Đồng minh, đồng thời 283 ======= PAGE 285 ======= ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương của thực dân. s_ Thể hiện sâu sắc tự hào tự tôn dân tộc: đặt ba cuộc cách mạng, ba bản tuyên ngôn, ba dân tộc ngang hàng nhau; Việt Nam sánh ngang tầm với cácc nước xâm lược, có bình đẳng, có tự do, do vậy, không ai có quyền xâm phạm. 3. Sự trích dẫn ấy vừa thể hiện sự cứng rắn nhưng cũng vô cùng khéo léo: »_ Khéo léo: Tôn trọng những tuyên ngôn bất hủ của cha ông kẻ xâm lược vì những điều được nêu là chân lí của nhân loại, mặc đầu đó là đất nước đang xâm lược Việt Nam. s_ Cứng rắn: Dùng lập luận “Gậy ông đập lưng ông”, lấy chính lí lẽ thiêng liêng của tổ tiên chúng để phê phán và ngăn chặn âm mưu tái xâm lược của chúng. Câu 2: «_ Vạch trần bản chất công cuộc “bảo hộ” của thực dân Pháp: hai lần bán nước ta cho Nhật (vào năm 1940, 1945), khiến cho “hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”,... © Chỉ rõ luận điệu xảo trá, lên án tội ác của chúng: là kẻ phản bội Đồng minh, không hợp tác với Việt Minh mà còn thẳng tay khủng bố Việt Minh,... e_ Việc kéo đài dung lượng trình bày 5 năm từ mùa thu năm 1940 đến mùa thu năm 1945 đài hơn dung lượng trình bày về 80 năm đất nước ta chịu xiềng xích của Thực dân để khẳng định đến hai lần “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”, điều đó khẳng định chắc nịch thực dân Pháp không có quyền quay lại Việt Nam. Câu 3: ® _ Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản của Đức - 1848 ©_ Tuyên ngôn Quốc tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc - 1948 Câu 4: 1. Hồ Chí Minh lập luận bác bỏ luận điệu xảo trá của thực dân Pháp về công cuộc “khai hóa” và “bảo hộ” của chúng bằng cách nêu những dẫn chứng cụ thể trên hai phương điện kinh tế và chính trị. se Thi hành nhiều chính sách đã man về chính trị, văn hóa — xã hội — giáo đục và kinh tế. ® Hai lần bán nước ta cho Nhật (vào năm 1940, 1945), khiến cho “hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói © (...) Liệt kê các tội ác của thực đân. « Những điệp từ “thế mà” được lặp đi lặp lại nhiều lần càng nhấn mạnh tội ác, sự phi nhân tính đi lại với những tuyên ngôn nhân quyền mà chúng đưa ra trước đó. Điệp từ “chúng” được lặp lại nhiều lần để nhấn mạnh vào tội ác mà thực dân đã gây ra cho dân tộc. 284 ======= PAGE 286 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Ngoài ra ở phần này tác giả còn sử dụng nhiều động từ mạnh như “chém”, “giết”, “tắm cuộc khởi nghĩa trong bể máu”. 2. Hồ Chí Minh có lập luận sắc bén, giàu chất trí tuệ để chứng minh và phân tích những tội ác của kẻ thù trong suốt 80 năm đô hộ nước ta, từ những lập luận ấy đã góp phần bác bỏ luận điệu” bảo hộ”, “khai hóa” của thực dân và cho mọi người thấy được sự phi lí, sự xảo trá của thực dân khi làm trái với nhân đạo với chính nghĩa. Câu 5: Đề bài nghiêng về nghệ thuật. Đây là đề tổng hợp các khía cạnh về nghệ thuật của Hồ Chí Minh được thể hiện trong tác phẩm. Bài làm cần phân tích lần lượt từng khía cạnh nghệ thuật của “Tuyên ngôn Độc lập” với những dẫn chứng tiêu biểu, phù hợp; sau đó cần tiểu kết lại, nêu giá trị nghệ thuật chung đặc sắc của tác phẩm: đó là một bài văn chỉnh luận hùng hồn, đanh thép, đầy sức thuyết phục được xem như là mẫu mực của loại văn nghị luận. Nghệ thuật ấy đã chấp cánh cho nội dung tiến bộ, sâu sắc, tạo nên áng văn mở nước bất hủ của thời đại mới. Ví dụ: “Tài nghệ ở đây là đưa ra được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi được.” Ở đây đang nhận xét nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh, do vậy cần chỉ rõ trong văn bản, có thể trả lời theo các câu hỏi: Luận điểm mà tác giả đưa ra là gì? Tác giả đã dưa ra những luận cứ, dẫn chứng nào để chứng minh? Câu 6: Học sinh nêu ra những suy nghĩ, nhận thức về trách nhiệm của thanh niên ngày nay đối với đất nước. Học sinh có thể đưa ra những cảm nhận, những thông điệp mà bản thân rút ra như: « Phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc. » Xung phong, sáng tạo và đi đầu trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước. «_ Tích cực tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản thân, đóng góp cho cộng đồng từ những hành động nhỏ bé nhất. se Nên có thêm lý giải về nhận thức, hành động của mình. 285 ======= PAGE 287 ======= VĂN BẢN 2 ĐỐI NGUYỆT Hồ Chí Minh SAU KHI ĐỌC Câu 1: 1. Thể thơ: tứ tuyệt (Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật) 2. Việc sử dụng thể thể có sự kết hợp cân đối hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, nhạc điệu trầm bổng, nhịp nhàng, thơ Đường vốn hàm súc, ý tại ngôn ngoại và hình ảnh trong thơ Đường luật thường có tính ước lệ, tượng trưng cao, chứa đựng tâm sự, cảm xúc của tác giả về thiên nhiên, thời cuộc và con người. Câu 2: Không gian: sân, ánh trăng, bóng cây Thời gian: đêm khuya, khi trăng đã lên cao. Câu 3: e© Luật bài thơ: luật trắc và không thất luật ©_ Bài thơ niêm ở các cặp câu: 1-4 và 2-3 se Xác định bài thơ có vần “thụ”, “tiền”, “liễu”, “miên” nên bài thơ thất vận vì các âm cuối không giống nhau. Câu 4: Đứng trước ảnh trăng, nhân vật đã có những cảm xúc: Bác Hồ và “vầng trăng” đã tìm thấy nhau giữa bao la núi rừng, từ một nhà chính trị đang lo cho việc nước việc dân, bỗng chốc nhân vật trữ tình lại như gạt hết mọi âu lo để hòa nhập với ánh trăng, điều này có thể thấy Bác Hồ đã coi trăng như tri kỉ, như người bạn tâm giao và Bác có một tâm hồn lãng mạn, thơ mộng, yêu thiên nhiên, yêu vâng trăng trên bầu trời lồng trong bóng cây cổ thụ. Câu 5: Gợi ý: Học sinh có thể tham khảo gợi ý sau và đưa ra lý giải của bản thân. Dù bận việc công, việc nước nhưng tác giả vẫn luôn hướng mình về vẻ đẹp của thiên nhiên, điều này giúp ta cảm nhận rõ hơn về nét đẹp trong tâm hồn Bác: © Bác bày tỏ tình yêu thiên nhiên tha thiết, luôn nâng niu, quý trọng từng sự vật thiên nhiên quanh mình. ®_ Tình yêu thiên nhiên cũng là một biểu hiện rõ nét của tình yêu cuộc sống, Bác dành cho đời một trái tim rộng mở, thiết tha. s Kể cả trong hoàn cảnh gian khó, Bác vẫn kết nối được với vầng trăng, chứng tỏ 286 ======= PAGE 288 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Bác có tỉnh thần lạc quan, không nản lòng trước những nhọc nhẳn, thử thách. Tâm hồn Bác luôn hướng tới những điều tốt đẹp ngay cả giữa nghịch cảnh. Câu 6: Học sinh có thể dựa vào phần trả lời ở câu 5 để có thể trả lời câu hỏi này. Học sinh đưa ra bài học từ Bác và đưa ra ý nghĩa, tác động tích cực của lối sống này với cá nhân mình và với đời sống xã hội hôm nay. Câu 7: Học sinh m hiểu và nhận xét điểm giống giữa các câu thơ của Hồ Chí Minh - cần gợi ý kĩ hơn, giải thích ý nghĩa từng câu thơ mà đề bài đặt ra rồi mới rút ra nhận xét chung. © “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”: Khi vừa kết thúc bàn bạc việc quân, Bác ung dung, thư thả trên con thuyền như trở đầy trăng. Một khung cảnh vô cùng lãng mạn đã thể hiện phong thái ung dụng, tự tại, lạc quan của Bác. s_ “Xách bương, dắt trẻ ra vườn tưới rau”: ngoài những giờ phút làm việc vất vả, Bác hết sức bình đị cùng mọi người tăng gia sản xuất, vui đùa cùng trẻ nhỏ... » “Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm”: Trắng và bác như trở thành người bạn tâm giao, giấc ngủ tràn ngập sự lãng mạn thay vì căng thẳng của việc quân, việc nước. e_ Gợi ý: tỉnh thần lạc quan, tình yêu đành cho thiên nhiên, ... C. TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH Câu 1: Chỉ ra lỗi logic và sửa lại trong những câu văn dưới đây: a. Để bổ trợ cho công việc dạy học của mình, Lan đã đi học kĩ năng nấu ăn. ©_ Lỗi: “kĩ năng nấu ăn” không thể bổ trợ cho “công việc dạy học” được. © Sửa: Để bổ trợ cho cuộc thi Vua đầu bếp của mình, Lan đã đi học kĩ năng nấu ăn. b. Được coi là đứa con tỉnh thần cuối cùng với thể tài truyện truyền kì, Vũ Trinh đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong diễn tiến văn học trung đại Việt Nam. © Lỗi: “đứa con tỉnh thần” là sáng tác văn học, không thể chỉ cho tác giả Vũ Trinh được. © Sửa: Được coi là đứa con tỉnh thần cuối cùng với thể tài truyện truyền kì, “Lan Trì kiến văn lục” đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong diễn tiến văn học trung đại Việt Nam. c. Bạn cứ yên tâm về giá cả, giá bán hôm nay là 130.000 VNĐ, hôm qua còn tới tận 300.000 VNĐ cơ. s_ Lỗi: Việc giá cả của hôm qua không liên quan tới giá của hôm nay. Người bán hàng này đang lập luận sai logic, không thuyết phục. » Sửa: Bạn cứ yên tâm về giá cả, giá bán hôm nay là 130.000 VNĐ, rẻ nhất từ trước đến nay rồi. d. Sự sơ suất trong việc kiếm kê của bạn đã ảnh hưởng rất nhiều tới tài sản của công ty, đồng nghiệp bên phòng Marketing vì bạn mà bị sa thải. 287 ======= PAGE 289 ======= «_ Lỗi: “tài sản của công ty” không đồng nhất với “đồng nghiệp” bị sa thải. e Sửa: Sự sơ suất trong việc kiểm kê của bạn đã ảnh hưởng rất nhiều tới tài sản của công ty, công ty đã thất thoát 50 tỷ VNĐ. Câu 2: Chỉ ra lỗi câu mơ hồ và sửa lại trong những câu văn dưới đây: a. Ở đây, chúng tôi nhận xay bột trẻ em. Lỗi: Vì không có biện pháp ngắt câu hoặc phó từ nên câu bị hiểu sai nghĩa. s Sửa: Ở đây, chúng tôi nhận xay bột cho trẻ em b. Bất ngờ bà chủ khách sạn cao nhất Phú Yên vừa được rao bán 500 tỷ đồng. s Lỗi: Nhan đề bài báo này không có dấu ngắt câu, vị trí các từ lộn xộn nên bị hiểu sai nghĩa. Có thể hiểu là bà chủ khách sạn có chiều dài cơ thể cao nhất Phú yên vừa được rao bán với mức giá 500 tỷ đồng. » Sửa: Bất ngờ, bà chủ của khách sạn cao nhất Phú Yên vừa rao bán khách sạn đó với mức giá 500 tỷ đồng. c. Em trai của chủ nhà tử vong cùng hai con bỏng nặng. © Lỗi: Nhan đề bài báo này không có dấu ngắt câu, vị trí các từ lộn xôn nên người đọc có thể hiểu nhầm ý. © Sửa: Người chủ nhà có em trai bị tử vong và hai con bị bỏng nặng. Câu 3: Những trường hợp dưới đây có thể hiểu theo các cách như nào? Các trường hợp đó có mắc lỗi mơ hồ trong diễn đạt hay không? Bạn hãy giải thích vì sao. a. Sông Đáu chảu uào đời tôi Như mẹ tôi sánh nặng rẽ 0ào ngõ sau mỗi buổi chiều âi làm 0ề uất nả Tôi dụi mặt uào lưng người mát một mảnh sông đêm. (Sông đáy, Nguyễn Quang Thiều) Hình ảnh sông Đáy chảy vào đời nhân vật trữ tình không phải theo nghĩa thực mà theo nghĩa ẩn dụ, ý muốn nhấn mạnh giá trị kí ức, ki niệm của con sông Đáy đối với nhân vật “tôi”. Đây không phải lỗi mơ hồ vì đây là văn bản văn học, người nghệ sĩ cố tình tạo ra những điều không tưởng, phi lí để gợi những ý nghĩa khác. b. Bà già đi chợ cầu Đông Bói xem một quê lấy chồng lợi chăng Thầu bói xem quẻ bảo rằng: Lợi thì có lợi nhưng răng không còn. (Ca dao, dân ca) Ở đây các tác giả dân gian đã lợi dụng hiện tượng từ đồng âm của tiếng Việt để chơi chữ. “lợi” vừa có nghĩa là một bộ phận trong khoang miệng gắn trực tiếp tới răng hàm, vừa 288 ======= PAGE 290 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? có nghĩa là một món hời, ích dụng của một điều gì đem lại giá trị tới con người. Đây không phải lỗi mơ hồ vì đây là văn bản văn học, các tác giả dân gian đã cố tình tạo nên sự mơ hồ này để chơi chữ, đồng thời bông đùa và châm biếm. c. Ta Dới mình, mình ới ta Lòng ta sau trước mặn mà đỉnh nình. (Việt Bắc, Tố Hữu) Đại từ “ta” và “mình” ở đây vừa chỉ người ở lại, vừa chỉ người ở xuôi, hiểu theo nghĩa nào thì tình cảm mà tác giả gửi gắm đến trong thơ cũng trọn vẹn và ý nghĩa. Đây không phải lỗi mơ hồ vì đây là văn bản văn học, nhà thơ đã cố tình tạo ra sự mơ hồ trong việc xác định danh tính để từ đó truyền tải tình cảm quân dân thắm thiết, quyện hòa. D. VIẾT Câu 1: Hãy chia bức thư trên thành các phần thành tố, nêu nội dung và ghi sang cột bên phải của những thành phần đó. Thiên đàng, năm 2017 1. Giới thiệu bản Chú Kevin Carter kính mến! Cháu xin tự giới thiệu cháu là một lá thư đến từ thiên đàng, ở đây cháu đã có cuộc gặp gỡ kì diệu với một cô bé ở làng Ayod, miền Nam Sudan. Cô bé đã nhờ cháu gửi gắm toàn bộ những tâm tư, tình cảm đến chú. Và rồi, cháu đã lên cỗ xe của thần đưa thư Hermes tốt bụng để đến được tay chú vào năm 1999- năm mà chú lên đến đỉnh cao vinh quang và lẻ thân và trình bày lí do, mục đích viết thư Dưới đây là những câu chữ tuy non nớt nhưng chân thành, còn tươi màu mực viết được in đậm trên mình cháu, còn thấm đẫm những tâm sự - điều mà những lá thư điện tử rất khó có được. Chú hãy dùng cả tấm lòng mình để đọc những dòng chữ này nhé! “Kinh gửi chú Kevin Carter! Cháu đã muốn viết thư cho chú từ lâu nhưng lại không biết gửi đến chú bằng cách nào, thật may vì đã gặp lá thư thần kì này. Người bạn ấy đã hứa sẽ đến gặp chú và chắc giờ này đã ở trên tay chú rồi, chú nhỉ? Chú còn nhớ miền nam Sudan vào khoảng năm 1993 không? Một vùng đất đới nghèo và bệnh tật, chiến tranh và chết chóc luôn song hành? Cháu chính là con đẻ của vùng đất này, là đứa trẻ đáng thương - nhân vật chính xuất hiện trong bức ảnh “Kền kền chờ đợi” của chú. 289 ======= PAGE 291 ======= Cháu còn nhớ năm đó, cháu là một bẻ gái còn nhỏ xíu, vậy mà cuộc nội chiến cũng không buông tha cho những đứa trẻ non nớt như cháu, cái cảnh chết chóc gần kề không còn gì là xa lạ với con người quê hương Sudan. Khi đó, cháu luôn trong tình trạng ngồi co ro ôm lấy bộ xương của cơ thể ốm yếu vì suy dinh dưỡng. Chính đôi mắt đen láy to hơn nửa khuôn mặt của cháu đã chứng kiến những bạn nhỏ của mình ngã xuống với tiếng rên ri, tiếng khóc dai đẳng. Cái đói kéo dài cùng cơn khát rát họng diễn ra thường xuyên nơi vùng đất khô cần, toàn đất sét, sỏi đá này. Ở đây dường như chưa ai từng biết đến một bữa ăn thực sự là thế nào, ngoài những chiếc bánh quy được bà mẹ làm cho bằng đất cát thì cháu và những đứa trẻ khác luôn cố kiếm những cỏ cây, rêu hay bất cứ thứ gì có thể nhét vào miệng để cầm cự cái đói. Chú Carter kính mến! Cháu biết chú luôn thương xót cho những số phận đói nghèo như cháu. Thật kì lạ là trên thiên đường, cháu có thể “nhìn” thấy được những suy nghĩ thiện và ác trong đầu của người khác một cách rõ ràng. Chú đã thương cho những đứa trẻ ban đầu khi được mẹ sinh ra có một cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh, lành lặn. Nhưng chiến tranh, đói nghèo đã khiến cơ thể chúng cháu gầy nhom như một bộ hài cốt. Chú đã thương cho những đứa trẻ vì cái đầu to quá khổ, không tương xứng với trọng lượng cơ thể, nên chúng đã bò nhiều hơn là đi. Thêm nữa, chúng cháu phải bò để không bỏ sót bất kì thứ gì có thể ăn được dưới đất. Dạ dày của chúng cháu thật tốt, chú nhỉ! Bây giờ thì quay lại câu chuyện cái ngày cháu gặp chú lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng. Cái ngày chú đến mang theo chiếc máy ảnh, cháu đã rất vui và cảm động vì đây là bức ảnh đầu tiên trong cuộc đời cháu. Chú đã không chê bộ xương trần và cơ thể đen nhẻm của cháu. Nhưng cháu lại không thể đem khoe bức ảnh ấy với các bạn của mnình trên thiên đàng. Khi cháu đang cố gắng lê lết cơ thể mình đến chỗ cứu hộ để nhận lương thực thì cháu lại mệt quá, cháu muốn mghi một chút rồi bò đi tiếp. Rồi một con kền kên xuất hiện phía sau. 3. Gửi gắm lời chúc và viết lí do kết thúc thư ======= PAGE 292 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Cháu có cảm giác nó chỉ đợi cháu gục xuống là những móng vuốt sắc nhọn kia sẽ găm vào cơ thể của cháu. Nhưng cháu không hoảng sợ, ở chỗ cháu loài chỉm này nhiều lắm. Chú đã không quên trách nhiệm của một người nghệ sĩ chuyên chụp ảnh chiến trường Nam Phi, chú đã chụp lại cảnh tượng đó. Chú Carter! Cháu rất biết ơn chú! Nhờ bức ảnh của chú, mọi người có thể nhìn thấy cuộc sống của chúng cháu ở vùng Sudan này. Có thể họ sẽ hiểu hơn những gì cháu và mọi người nơi đây đã phải chịu đựng: đói nghèo và bệnh tật, không đồ ăn, không nước uống, không học tập, chỉ có tử thần luôn thường trực. Nhờ bức ảnh của chú, có thể mọi người sẽ tìm hiểu và biết được rằng trên thế giới, cứ 10 giây trôi qua là có một trẻ em chết vì đói. Và biết đâu họ sẽ đến với chúng cháu bằng một tấm lòng tốt như chú, hay họ sẽ biết trân trọng hơn những thứ họ đang có, như vậy cũng tuyệt vời lắm rồi! Cháu biết những ngày qua, vì bức ảnh chú chụp cháu, chú đã nhận phải nhiều lời chỉ trích của những người không hiểu chú- những người cho rằng chú lạnh lùng vô cảm khi bấm máy. Nhưng chú biết không, khi viết lá thư này, cháu vẫn hình dung ra đôi mắt trong lành và tràn đầy yêu thương của chú. Tạo hóa đã ban tặng cho mỗi con người một đôi mắt, để làm gì nếu không phải để quan sát cuộc sống này? Nhưng cuộc sống thì rộng lớn chẳng ai có thể quan sát được hết, có những sự thật vẫn bị chôn vùi, có những điều tốt đẹp chưa được tìm thấy. Đúng không chú Carter? Mọi người đâu có thấy giọt nước mắt của chú sau ống kính máy ảnh, đâu thấy được hết những khổ đau, dẫn vặt của chú vì hiện thực mà chú chứng kiến? Thay vì chỉ trích, họ phải nên nói lời “cảm ơn” với chú, vì chú xứng đáng nhận được điều đó. Với cháu, chú là một nghệ sĩ nhiếp ảnh vĩ đại và mãi mãi bất tửi Cầu nguyện cho chú Carter của cháu!” ¬na1 ======= PAGE 293 ======= Đến đây cháu đã hoàn thành sứ mệnh của mình, trao gửi nguyên vẹn những tình cảm của cô bé làng Ayod. Cháu thấy tự hào và hạnh phúc lắm! Còn rất nhiều người đang chờ cháu trở về để kí thác tâm tư nên cháu xin từ biệt chú ở đây. Chúc chú an lành! Tạm biệt! Bài thi của thí sinh Nguyễn Thị Thảo Ngân trong cuộc thi viết thư UPU lần 47 Câu 2: Ở lá thư trên, người viết đã gửi gắm tâm sự tới ai? Hình thức của bức thư có điều gì đặc biệt? Theo em, vì sao tác giả lại sử dụng hình thức đó? s_ Người viết gửi gắm tâm sự tới Kevin Carter - nhiếp ảnh gia với bức ảnh “Kền kền chờ đợi” nổi tiếng. © Hình thức thư: thư lồng trong thư. ® Tác giả sử dụng hình thức đó để tạo cảm giác chân thật, tăng sức thuyết phục khi chọn điểm nhìn vào người trong cuộc, nhập vai vào cô bé gái - nhân vật chính của bức tranh, để viết thư bày tỏ tình cảm tới nhiếp ảnh gia. Câu 3: Bức thư này được viết nhằm mục đích gì? Người viết trao đổi về vấn đề gì? Bức thư này viết nhằm mục đích gửi lời cảm ơn tới nhiếp ảnh gia Kevin Carter vì đã lan tỏa thực trạng đáng báo động ở Sudan cho toàn thế giới. Qua đó, người viết (nhập vai cô gái Sudan) để cất lên lời cầu cứu với thực trạng chiến tranh, bệnh tật, đói kém ở vùng đất này. Học sinh lấy dẫn chứng từ bức thư để chứng minh cho câu trả lời của mình. Câu 4: Em rút được kinh nghiệm gì cho bản thân trong việc viết thư thông qua lá thư trên? Học sinh tự sơi chiếu vào khả năng viết thư hiện tại của mình với bức thư mẫu để rút ra kinh nghiệm cho:bản thân về kiểu bài này. Có thể là cấu trúc thư lồng thư, hình thức nhập vai để viết thư, ngôn từ giàu tính biểu cảm, ... E. LUYỆN TẬP 292 ======= PAGE 294 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? PHẦN CÂU NỘI DUNG Bài thơ lấy cảm hứng sáng tác từ Hồ Chí Minh. Một số sự kiện: e©_ Ngày 5/6/1911, Bác ra đi tìm đường cứu nước tại bến cảng nhà Rồng. ©_ Bác Hồ đọc Luận cương Lê-nin. Cảm xúc rưng rưng tự hào và lòng biết ơn chân thành cùng những suy tưởng sâu sắc về hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Bác Hồ Học sinh tự đưa ra nhận xét về tình cảm của tác giả được thể hiện trong bài thơ (Ví dụ: biết ơn, tự hào, xúc động, ...) “Đêm nay Bác không ngủ” - Minh Huệ “Bác ơi“—- Tố Hữu. (...) Em hãy tự sưu tầm thêm để mở rộng vốn đọc của mình nha. Học sinh viết đoạn văn đảm bảo đúng yêu cầu: ©_ Hình thức đoạn văn diễn dịch ® Dung lượng khoảng 300 chữ © Đoạn văn cần nhận xét và chỉ ra được mong muốn của nhân vật tôi trong hai câu thơ là gì (Ví dụ: khao khát được cống hiến, được hiến dâng, được góp sức nhỏ bé vào sự nghiệp lớn lao của dân tộc...) Gợi ý: Tác giả thể hiện sự đau xót, quyến luyến trong giây phút chia xa “nhưng Bác phải ra đi”. Nhà thơ thể hiện nỗi niềm mong ước của mình là “ được làm con sóng dưới chân tàu đưa tiễn Bác”, muốn theo kịp chân Bác để chia sẻ nỗi vất vả, nhọc nhằn. Từ đó còn thể hiện sự lưu luyến, bịn rịn, khao ^* khát hiến dâng của nhân vật “ tôi”. 293 ======= PAGE 295 ======= 29 a. Yêu cầu kiểu bài Học sinh viết đúng cấu trúc bài văn: Mở bài giới thiệu được vấn đề nghị luận, Thân bài triển khai được vấn đề nghị luận, Kết bài khẳng định lại vấn đề nghị luận. Viết đúng dung lượng yêu cầu: 600 chữ (+/- 10%) (Kiểu bài: Viết bài văn nghị luận về một tư tưởng đạo lý tốt đẹp) b. Xác định đúng trọng tâm Suy nghĩ về giá trị của tỉnh thần lạc quan trong cuộc sống ngày hôm nay. c. Triển khai vấn đề nghị luận Học sinh lựa chọn hệ thống luận điểm phù hợp để thực hiện, có thể theo hướng như sau: ® Giải thích được vấn đề nghị luận: Tỉnh thần lạc quan là luôn luôn tin tưởng, hi vọng vào kết quả tốt đẹp, thuận lợi... ® Bình luận về vấn đề nghị luận: Tập trung vào giá trị, ý nghĩa của vấn đề: o . Tạo động lực cho con người không ngừng cố gắng trước chông gai, thử thách của cuộc đời. o. Giúp con người tận hưởng cuộc sống ý nghĩa hơn... o. Thêm niềm tin vào tương lai, mạnh mẽ chỉnh phục những thử thách để ngày càng hoàn thiện bản thân, vươn tới phiên bản hoàn tốt nhất của chính mình. °© (..) s Đưa ra dẫn chứng, biểu hiện của giá trị tỉnh thần lạc quan trong cuộc sống. e Hiện trạng: có thể nêu ở khía cạnh tích cực và tiêu cực. s Giải pháp để phát huy tỉnh thần lạc quan, đẩy lùi tiêu cực. ======= PAGE 296 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? d. Đảm bảo các yêu cầu sau ° Triển khai được ít nhất 02 luận điểm để làm sáng tỏ vấn đề. ° Trình bày vấn đề một cách rõ ràng, thuyết phục, có dẫn chứng kèm theo. ` Sử dụng lý lẽ, dẫn chứng xác đáng, thuyết phục; sắp xếp các ý một cách logic, hợp lý, rõ ràng, đảm bảo tính mạch lạc. đ.Chính tả, ngữ pháp Học sinh cần đảm bảo chính tả, ngữ pháp, liên kết câu, đoạn. e. Sáng tạo Học sinh có những ý tưởng sâu sắc, có cách điễn đạt phong phú, sinh động, mới mẻ. Học sinh tự nêu cảm nhận về bức tranh. Nhắc lại đàn ý Mở đoạn: giới thiệu được bức tranh “Bác câu cá bên bờ suối Lê- nin” Thân đoạn: Học sinh có thể nêu cảm nhận theo hướng sau: e_ Nêu cảm nhận về giá trị nội dung (hình ảnh trong bức tranh khắc họa chân dung Bác như thế nào? Vẻ đẹp của sự điềm đạm, thanh tao đã đem đến cho người xem cảm nhận ra sao về Bác? Bức họa bày tỏ tình cảm như thế nào của người họa sĩ về Người?...) Nêu cảm nhận về giá trị nghệ thuật (bố cục, màu sắc, đường nét,...) Kết đoạn: Khẳng định lại một lần nữa giá trị của bức tranh 295 ======= PAGE 297 ======= BÀI 05: TỪ TIẾNG CƯỜI HÀI KỊCH ĐẾN B. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN SAU KHI ĐỌC VĂN BẢN 1 NHÂN VẬT QUAN TRỌNG (Trích “Quan thanh tra”) _Ni- cô- lai Gô-gôn_ (Nicolai Gosol) Câu 1: Học sinh đọc kĩ cả phần tóm tắt toàn bộ vở kịch kết hợp cùng đoạn trích chính ở văn bản để xác định tình huống trào phúng. Học sinh xác định bối cảnh cụ thể của lớp kịch: Khơ-lét-xta-cốp vốn là nhân viên thư kí quèn, từng sống chưi lủi để trốn tiền trọ, trốn khỏi thủ đô để về tỉnh lẻ. Thế nhưng đám quan chức lại nhận nhầm Khơ-lét-xta-cốp là quan thanh tra, đưa anh rời khỏi quán trọ và trước nhân vật quan tr HhÖ đề cử: nn gái thị Pưởng sốt ông thể hiện mình ân vị b ong từ thủ đô tới. Khơ-lét-xta-cốp vẫn chưa thật hiểu vì sao đám quan chức thị trấn lại cung phụng mình, song anh tạ không hề băn khoăn, chỉ tận hưởng mọi sự thết đãi khoe mẽ” với vợ và con gái thị trưởng, được đà khoác lác như thể mình thực sự là một nhân vật vô cùng quan trọng từ thủ đô tới, > Tình huống trào phúng: nhận nhầm quan thanh tra Câu 2: Học sinh đọc phần tó Khơ-lét-xta-cốp (Là một nhân vị phòng của một vụ ở R- thủ đô để về tỉnh lẻ, sa ảm tất hồi II của vớ kịch, xác định hoàn cảnh thực tế của ến thư kí quèn, tếc-bua. Anh ta sz “đoảng vị, không được việc gì” tái vận vào bài b c `#ng chui, sống lủi để trốn tránh tiền trọ, rời khỏi , $C, Cháy túi song vẫn ĐÀO sà và. , à mtƠ tức “hái những bông hoa khoá; tớ "§ vẫn luôn giữ điện mạo bảnh bao và Cuộc sống “thượng lưu” : An cu R ằng thư kí nhì nhà ô vụ trưởnŠ là bạn thân với tôi đấy. Ngài vỗ vai tôi thế này, nói là Xc chng đằng nhà ăn với , ời anh em, lại # mình!“. Mỗi ngày, tôi chỉ đến vụ có hai phút, đụ để ra lệnh làm nh: thế này, làm như H àm như thế này, 29% ======= PAGE 298 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? kia! Ở đất đã có một viên công chức, một anh thạo việc bàn giấy, cứ cầm bút một cái xoạch, xoạch, thào như bay tất cả trong công văn cho tôi. Họ muốn cử tôi làm quan phó cho đoàn tuyển cử. Nhưng tôi nghĩ nhận chức làm quái gì. Lại còn một thằng hầu lúc nào cũng cầm bàn chải chạy theo khi tôi lên cầu thang: “Ông I-van A- lếch-xan-đrô-vích, ông cho phép con đánh hầu ông” s Tôi không thích lễ nghi phiền phức đâu nhé: trái lại, bao giờ tôi cũng cố tìm cách lấn tránh cho không ai biết mình. Nhưng không tài nào lấn tránh được chứ l, không biết làm cách nào! Tôi vừa có mặt ở đâu, đã thấy có người nói: “Kìa ông I-van A-lếch-xan-đrô- vích đi kia kia”. Có lần họ lại tưởng tôi là tổng tư lệnh. Thế là bọn lính từ trong bốt vội vàng nhảy xổ ra, bồng súng chào. Sau đó viên sĩ quan vốn biết tôi lắm, nói với tôi rằng: “Kìa, người anh em, thế mà bọn mình cứ tưởng lầm đẳng ấy là tổng tư lệnh” s_ Tôi cũng có cho đăng trên tạp chí nhiều bài. Tôi viết nhiều tác phẩm lắm: Đám cưới chàng Phi-gu-rô (Figaro), Rô-be (Robe) con quy, Noóc-ma (Norma) (..) + Nhân vât đáng cười ở chỗ: e_ Thói bốc khoác, khoe khoang, phô trương © Nhân vật tự ảo tưởng mình là quan thanh tra thực sự và đón nhận cuộc sống thượng lưu và tự chê bai thân phận, cuộc sống nghèo hèn trước kia của bản thân... Câu 3: Học sinh tự chỉ ra các lời thoại của viên kiểm học Lu-ca Lu-kích, trưởng viện bần Ác-tê-mi Phi-líp-pô-vích Thái độ: Nhận nhầm Khơ-lét-xta- cốp là quan thanh tra, cung phụng anh ta thậm chí hối lộ, lợi dụng sự nịnh bợ của mình để mong được giúp đỡ tiến thân, hạn chế, ngăn cách Khơ-lét-xta-cốp không cho tiếp xúc với những người bị ức hiếp. Câu 4: Đây là hai nhân vật phụ không chỉ góp phần xây dựng tiếng cười mà còn là sự tác động, là nguồn cơn để Khơ-lét-xta-cốp được tà khoe mẽ, bốc khoác, hai nhân vật này gây cười vì đầu óc rồng tuếch, học đòi làm sang.... Câu 5: Tình huống hiểu lầm Nhận nhầm Khơ-lét-xta-cốp là quan thanh tra Phóng đại trong những lời lẽ khoe mẽ, khoác lác của Khơ- Nghệ thuật phóng đại lét-xta-cốp, phóng đại trong cử chỉ, điệu bộ xã giao (sự cung phụng hoặc trịch thượng quá mức). 297 ======= PAGE 299 ======= Cuộc sống thượng lưu mà Khơ-lét-xta-cốp cầng phóng đại Nghệ thuật tương phản | bao nhiêu thì càng trái ngược với cuộc sống thực tế của anh ta bấy nhiêu. Ngôn từ tăng cường tính | Nói lặp, nói bóng gió, nói quá, đối thoại “ăn miếng trả trào phủng Câu 6: Kết cấu hài kịch “Quan thanh tra” (Học sinh dựa vào phần chia các hồi của vở kịch) Phần 1 (Mở đầu): Thông báo quan thanh tra có thể đã tới thị trấn và sự lo sợ của đám quan chức. (Hồi I) Phần 2 (Thắt nứt: Đám quan chức nhận nhầm Khơ-lét-xta- cốp là quan thanh tra. (Hồi II) Phần 3 (Triển khai): Khơ-lét-xta-khốp nhập vai quan thanh tra (Hồi II), Khơ-lét-xta- cốp từ sự sượng sùng vay tiền đám quan chức đã chuyển sang đòi hỏi, quát nạt để ăn hối lộ công khai của những người bị hiếp đáp, tận dụng chức quyền và cơ hội để tán tỉnh cả con gái và vợ của thị trưởng. Phần 4 (Đỉnh điểm): Khơ -lét-xta- cốp vênh váo và ra oai với đám quan chức dưới quyền, ảo tưởng mình là quan thanh tra thực sự. Phần 5 (Kết thúc): Bưu vụ phát hiện Khơ-lét-xta - cốp không phải là quan thanh tra khi đã đọc trộm thư, quan thanh tra thực sự đã xuất hiện. (Lớp VII - Lớp Câm, hồi V) Xung đột: Mâu thuẫn giữa những toan tính, ảo tưởng của cuộc sống thượng lưu với cuộc sống thực tế của nhân vật. Câu 7 (sáng tạo): Học sinh cần dựa vào vở hài kịch để xác định “thói Khơ- lét-xta-cốp” là gì? (ở đây là thói khoác lác, ảo tưởng), nó có thể bắt nguồn từ chính những mặc cảm thân phận, sự thiếu thốn trong đời sống thực tế của con người... Dựa vào ý lí giải trên để suy ra nội dung câu nói của Gô-gộn: ai cũng có thể có lúc đặt mình trong hoàn cảnh khó khăn và có những ảo tưởng viển vông... (Học sinh đưa thêm ý hiểu của bản thân) Sau đó có thể thêm giải pháp để không mắc phải “thới Khơ-lét-xta- cốp” để câu trả lời trọn vẹn hơn (VD: nhận thức đúng đắn về hoàn cảnh, trân trọng những gì mà bản thân CÓ...) 298 ======= PAGE 300 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? VĂN BẢN 2 ARPAGÔNG - ÊLY - CLÊAN (Trích “Lão hà tiện”) Mô - Ì¡ - e Câu 1: Đọc phần tóm tắt về nhân vật Arpagông một gã nhà giàu có, góa vợ, có một con trai tên là Clêan và một con gái tên là Êly. Lão có một tráp đựng một vạn equy được cất giấu trong vườn. Do đó lão nghỉ ngờ tất cả mọi người trong gia đình, thậm chí ngay cả hai đứa con mình vì lão sợ họ trộm cái tráp của mình. Lão đè sẻn từng đồng bạc các trong các chỉ phí gia đình. Sự ngờ vực cộng với sự keo kiệt của lão làm cả người ở lẫn con cái ngày càng không thích lão. Ngay cả trong truyện hôn nhân của con cái lão cũng tính toán để có lợi cho mình. Lão định gả con gái cho Anxem — một lão già lắm của và gả con trai cho một bà góa lắm tiền vì họ không đòi của hồi môn. Trong khi đó con trai lão đang yêu Marian và cũng chính là người mà lão yêu, vô tình hai cha con trở thành tình địch của nhau. Cả hai người con đều phải đấu tranh và tìm mọi cách bảo vệ cho tình yêu của mình. Nhờ sự trợ giúp củađầy tớ của Clêan, anh đã lấy được cái tráp tiền và lấy nó ra làm vật trao đổi với cha mình về tình yêu. Arpagông phải đành lòng chấp nhận chuyện hôn nhân của con cái và đánh đuổi cả tình yêu của mình để lấy lại tráp tiền. Trong khú mọi người đều vui vẻ trong niềm hạnh phúc thì hạnh phúc to lớn và duy nhất với lão là cái tráp vàng. Cho đến ngày cuối cùng, tính hám vàng vẫn vẹn nguyên trong cái tráp tiền, không có gì có thể thay đổi được sự tham lam về mặt vật chất, bản chất hám tiền của lão. + Tình huống trào phúng: tính cách hà tiện của Arpagông. Câu 2: Trong thực tế, Arpagông là một tay tư sản giàu sự của thời đại, có món tiền tận một vạn êquy. Nhưng trong lời nói của ông ta với hai đứa con gái thì luôn phủ nhận việc mình có tiền: “ chả là ta đương lẩm bẩm một mình về chuyện ngày nay kiếm được đồng tiền thật là khó nhọc, và ta bảo rằng kẻ nào có được một vạn êquy trong nhà, thì thật là tốt phúc”, “để mà tưởng rằng ta bảo là chính ta có một vạn êquy.”, “Tao có khối của! đấy là những quân vô lại chúng phao các con khỏi hiểu lầm Những đứa nào nói thế là nói láo. Chả có gì sai băng; đồn những tin nhảm đó” ... (Học sinh tự chỉ ra thêm lời nói của nhân vật) + Nhân vật này gây cười bởi những hành ví, cử chỉ lố bịch, bởi sự tương phản trong cách sống hà tiện của một tên tư bản giàu sự và bản chất ích ki ngay cả với những người thân thiết. 299 ======= PAGE 301 ======= Câu 3: Nhân vật Êly: e Từ chối “Con không muốn lấy chồng thưa cha, xin cha vui lòng vậy” »_ Cương quyết từ chối, thậm chí còn dọa cha sẽ tự tử nếu cứ bắt ép. Điều này cho thấy nhân vật Arpagông là người vô tâm, ích kỉ, chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân, không chịu lắng nghe sự khẩn cầu, mong ước, không quan tâm đến hạnh phúc của con. Câu 4: Hai nhân vật đã đóng vai trò trở thành điều kiện để nhân vật người cha thể hiện sự ích kỉ, độc đoán và sự hà tiện của bản thân, có sự xa cách và lơ sợ với cả những người thân trong gia đình của mình Đồng thời hai nhân vật này còn góp phần tạo nên một tiếng cười nhưng nhuốm màu bi kịch với những nghịch lý xảy ra trong gia đình, người cha không quan tâm đến hạnh phúc của con cái. Câu 5 (sáng tạo): Học sinh có thể lựa chọn biện pháp bất kì Biện pháp cường điệu: Moliere tập trung miêu tả một tính cách, một dục vọng và biện pháp nghệ thuật được ông dùng là cường điệu tính cách, dục vọng đó lên. Tính hà tiện của Harpagon được cường điệu tới mức điển hình, nó được thể hiện mọi nơi, mọi lúc, mọi hành vi, cử chỉ của nhân vật. Tất cả con người Harpagon đều gắn với thói vụ lợi, quan hệ với ai lão cũng sợ thiệt thòi, lão nghi ngờ cả hai đứa con của mình, sợ chúng nghe thấy số tiền mà lão có mà nảy sinh lòng tham. Khi thổi phồng hiện tượng hoặc sự việc, cường điệu đã làm tang và làm nổi bật sự mâu thuẫn giữa nội dung phản ánh và hình thức phản ánh, hình thành ngay từ đầu cơ chế của cái cười. Bởi vì một hiện tượng hay một sự vật nếu chỉ tồn tại đơn điệu thì không có khả năng gây cười, nhưng tô đậm nó đi, thổi phồng nó lên làm cho nó bị biến dạng với bản chất đích thực của nó thì lúc ấy nó sẽ có tính hài. Như vậy, cường điệu là một biện pháp gây cười. Sắc thái của tiếng cười phụ thuộc vào sự cường điệu ấy gắn với nhân vật nào. Mô- li đã sử dụng nhiều lần biện pháp này và gắn liền với tính cách nhân vật Arpargông, thổi phồng tính cách này lên với một dựng ý nghệ thuật nhất định. Và ở đây nó đã đạt tới đỉnh cao với tiếng cười châm biếm, tạo giá trị phê phán cao. Câu 6: ======= PAGE 302 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Nhân vật Arpagông tiêu biểu cho kiểu người keo kiệt, thủ đoạn, coi tiền là trên hết, là thước đo cho mọi giá trị. Dựa vào nội dung, học sinh đưa ra những nét đặc biệt trong tính cách của nhân vật: Ví du: ®_ Lão chỉ quan tâm đến tiền bạc. ©_ Coi thường tình cảm gia đình, tình thân ® Bỏ qua luân thường đạo lý (thậm chí còn tranh giành tình yêu với con trai cuả mình) s.... Câu 7: Học sinh có thể đưa ra những gì mà bản thân tự rút ra từ văn bản (Ví dụ: thói hà tiện, tham lam...) Học sinh có thể trả lời dựa theo việc trả lời các câu hỏi: Hiện tượng này có diễn ra trong cuộc sống ngày hôm nay không? Biểu hiện, thực trạng của nó là gì? Nó có những tác động ra sao đến cuộc sống con người? Và có giải pháp gì để ngăn chặn hiện tượng đó không? C. TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH BIỆN PHÁP NÓI MỈA, NGHỊCH NGỮ Bài 1: 1. Tác giả đã sử dụng “phép vật hóa” trong miêu tả chân dung, phóng đại những nét xấu xí để tạo nên sự kì cục, qua đó hiệu quả mỉa mai được bộc lộ. Nhà văn đã miêu tả khuôn mặt của con người đầy biến đạng: chiếc bánh dầy đám cưới, quả chuối ngự, hai múi cà chua, ... + Ngụ ý mỉa mai được biểu đạt là: người mang danh bà phủ thuộc tầng lớp trên của xã hội song thực chất không xứng về tính cách mà ngay cả hình thức cũng không ưa nhìn. 2. Nhà văn đã sử dụng phép lặp để miêu tả những hành động diễn ra liên tiếp của nhân vật “Rồi...”, “Cô... .” > Ngụ ý mửa mai được biểu đạt là: mỉa mai sự xa hoa, ăn chơi đua đòi, ăn điện của những người phụ nữ tân thời. 301 ======= PAGE 303 ======= Bài 2: a. Ếch là con vật bé nhỏ; còn rắn là con vật có nọc độc nguy hiểm, kẻ thù xưa nay của ếch. Lợn là con vật hiền lành, chỉ sống loanh quanh trong vườn, trong chuồng, là mồi ngon của con hùm to lớn, hung dữ. Nghịch lý là hùm lại thân thiết để cho lợn liếm lông. Quả hồng vốn là sự vật không thể “nuốt” con người là “lão tám mươi” > Đề cập đến những hiện tượng phi lí, ngược đời trong xã hội. b. Biện pháp nghịch ngữ “tên sát nhân được sùng bái” (“sát nhân” là những người đáng bị lên án vì tội ác xấu xa thế nhưng lại được “sùng bái”, tôn trọng), học sinh cần triển khai tương tự với các ý tiếp theo Ví dụ: ®_ “kẻ nhân từ bị bu môi” (“bu môi” thể hiện thái độ không tôn trọng, xa lánh trong khi đó “nhân từ” ý chỉ một người tốt, hiền hậu) *® “người hành khất bị nghỉ ngờ” (“hành khất” chỉ hoàn cảnh đáng thương, thế nhưng bây giờ vẫn không được tin tưởng) ® “Thánh hiền phải sợ quỷ thần” ( ở đây có sự đối chọi về nghĩa giữa “ thánh hiền” và”“quỷ thần” ° ... > Nhà thơ nhận thấy những nghịch lý, những trái tai gai mắt, sự xuống đốc của đạo đức...: con người sẵn sàng bước qua lòng nhân đạo, tình yêu thương, lương trị, đức tin... để leo lên đỉnh cao của tham vọng; nền tảng đạo đức truyền thống. D. VIẾT Câu 1: Trong văn bản trên, bức tranh Mona Lisa đã được cảm nhận trên những khía cạnh là: e Giá trị độc bản Tranh và nhận vật có thần, sự kết nối của bức tranh với độc giả. se Sự độc đáo và đặc biệt của bức tranh: vẽ bức tranh phong cảnh làm nền phía sau. © Những “ảo giác” mà tranh tạo ra Câu 2: Tác giả đã kết hợp kiến thức từ các môn nghệ thuật: văn chương, âm nhạc, sân khấu, 302 ======= PAGE 304 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? diện ảnh. Đặc điểm của các môn nghệ thuật được đưa ra: có thể in ra, diễn đi, chiếu đi chiếu lại hàng nghìn, hàng vạn lần mà người xem vẫn thấy hài lòng. Những đặc điểm chung của các ngành nghệ thuật này được đưa ra để làm cơ sở làm nổi bật đặc điểm của bộ môn nghệ thuật hội họa đó là có tính độc bản, duy nhất, không tái bản. E. LUYỆN TẬP PHẦN NỘI DUNG Vở kịch trên lấy cảm hứng từ vấn nạn tham nhũng, đút lót trong cuộc sống. Đây là vấn đề xấu, nó có thể khiến con người bị biến chất về đạo đức và nhân cách chỉ vì lòng tham, gây hại cho xã hội, ảnh hưởng đến sự công bằng xã hội, làm gia tăng sự bất công... (Học sinh có thể đưa ra thêm tác động) Nhân vật vợ bác sĩ Kim là người đảm nhiệm vai trò đẩy câu chuyện đến cao trào khi “ hướng dẫn ông Kim nhận phong bì”, trước bệnh tình của người khác cần phải”mổ”nhưng vì có thể ăn hối lộ nên bà “Tốt, mổ tốt lắm”, bệnh tình của người khác chỉ là cách để bà cải thiện đời sống, thúc giục ông Kim ăn hối lộ. Nhân vật đã góp phần mỉa mai những con người tham lam, ích kỉ, nghĩ đến lợi ích cá nhân trước những khó khăn, khốn khổ của người khác. Học sinh nêu cảm nhận của riêng mình về đoạn văn, có thể theo hướng như sau: Bài học mà học sinh nhận ra từ vở kịch trên là gì (cần nêu được cụ thể tên bài học). bài học này có ý nghĩa, tác động ra sao? ======= PAGE 305 ======= 304 Học sinh lý giải ý hiểu của bản thân về “bệnh sĩ” (Gợi ý: đây là thói thích phô trương, khoe khoang, cố tình nói khoa trương để che giấu đi sự nghèo nàn bên trong, những gì mà bản thân không có) Trình bày hậu quả của căn bệnh: e Khiến con người trở nên ảo tưởng, không biết cố gắng, nỗ lực s Khiến con người không biết trân trọng những giá trị mà bản thân đang có se Có thể khiến con người biến chất về đạo đức và nhân cách: sẵn sàng ăn chơi, đua đòi, thậm chí làm mọi cách để đạt được thứ mình muốn. Đoạn văn cần đảm bảo các yêu cầu sau: s Lựa chọn được thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề. s Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý. s Lập luận chặt chẽ, thuyết phục, xác đáng, dẫn chứng tiêu biểu, phù hợp, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng. a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, ... với dung lượng khoảng 300 chữ. b. Xác định đúng vấn đề Phân tích, cảm nhận về một nhân vật trong tác phẩm văn học c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề. Có thể tham khảo hệ thống ý sau: ® Phân tích đặc điểm của nhân vật. ® Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật (nhân vật đó xuất hiện như thế nào? các chỉ tiết miêu tả hành động của nhân vật đó? Ngôn ngữ của nhân vật. ======= PAGE 306 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? s Những cảm xúc suy nghĩ của nhân vật đó như thế nào. se Mối quan hệ của nhân vật đó với các nhân vật khác. d. Viết đoạn văn cần đảm bảo các yêu cầu s Lựa chọn được thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề. se Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý. s Lập luận chặt chẽ, thuyết phục, xác đáng, dẫn chứng tiêu biểu, phù hợp, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng. e. Diễn đạt Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản. ø. Sáng tạo Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về nhân vật, có cách diễn đạt mới mẻ, hấp dẫn. ======= PAGE 307 ======= BÀI 06: SỰ THẬT TRÊN TRANG KÝ VĂN BẢN 1 MÃI MÃI TUỔI HAI MƯƠI (Trích) Nguyễn Văn Thạc B. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN SAU KHI ĐỌC Câu 1: Tính phi hư cấu của đoạn trích Mãi mãi Hiổi hai mươi được thể hiện ờ những yếu tố nào? Điều đó có tác dụng gì đối với nội dung của văn bản? Tính phi hư cấu thể hiện ở những sự kiện có thực mà tác giả đã trực tiếp tham gia hay chứng kiến, biểu hiện ở các mốc thời gian cụ thể, địa điểm cụ thể. Tác dụng: Giúp câu chuyện trở nên xác thực hơn, cung cấp các thông tin sự kiện đến người đọc. Thông qua miêu tả địa điểm cụ thể, người đọc có thể hình dung ra bối cảnh câut chuyện. Câu 2: Chỉ ra một đoạn văn có sự kết hợp thủ pháp tự sự và biểu cảm trong văn bản. Việc sử dụng kết hợp các thủ pháp đó có tác dụng gì? Trong đoạn trích có nhiều đoạn văn có sự kết hợp thủ pháp tự sự và biểu cảm, học sinh có thể lựa chọn một đoạn văn ấn tượng và chỉ ra được tác dụng. Ví dụ đoạn trích: Ta đã bao lần đi bên sông Tô Lịch, trước kia ta khó chịu vì mùi bùn oi nồng... Ta đã mấy lần hành quân bên sông Tô Lịch, ta yêu sông vì bọt tắm sủi, vì màu xanh non, tuổi trẻ có công vun đắp của dòng sông. Có phải lòng sông đã quên mình nhơ bẩn, đã chịu lòng mình mang mùi vị ấy để đem cho đời những cọng rau muống tươi kỳ lạ, để đem màu hồng tưới cho thành phố. Sông Tô ơi, mai trở về, ta khơi lại dòng sông, cho tuổi thơ vấy vùng, cho con thuyền anh chở em đi, đi vòng quanh thành phố... Phân tích yếu tố tự sự và biểu cảm có trong đoạn trích: ®_ Yếu tố tự sự: Ta đã bao lần đi bên sông Tô Lịch... Ta đã mấy lần hành quân bên sông Tô Lịch e Yếu tố biểu cảm: ta yêu sông vì bọt tăm sủi, vì màu xanh non, tuổi trẻ có công vun đắp của dòng sông... Sông Tô ơi, mai trở về, ta khơi lại dòng sông, cho tuổi thơ vẫy vùng, 306 ======= PAGE 308 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? cho con thuyền anh chở em đi, đi vòng quanh thành phố... > Tác dụng: cụ thể hóa những tình cảm gắn bó, những kỉ niệm đáng nhớ của tác giả đối với dòng sông Tô Lịch; từ đó nhấn mạnh ý nghĩa của dòng sông đối với đời sống của nhân dân. Câu 3: Nêu tên và phân tích biện pháp tu từ trong đoạn văn sau: Đêm đầu sao, chỉ chít những ngôi sao, như lòng mẹ, như lòng em đứng ở bên đường. Hồ nước trong kỳ lạ. Sao mẹ kể, những cái hồ ấy là nước mắt? Đau khổ nghìn năm, những tròng mắt nào đã đầm đìa để tích tụ thành Hồ... Mà hôm na đời oui nhự thế? Con cá dưới hồ cũng quẫu, cũng đớp ánh trăng oà chào anh bộ đội... Cá, cá ơi, đừng cười anh nhé, đừng kể cho những cô gái trong làng, chuyện bọn anh sợ địa, khi các cô nsồi bên bờ này nhắc đếm các anh... So sánh: » “đêm đầy sao” - “lòng mẹ”, “lòng em đứng ở bên đường”. + “cái hồ” - “nước mất” Nhân hoá: »_ Gắn cho con vật hành động của con người: con cá chào anh bộ đội. ® Trò chuyện với động vật như trò chuyện với con người: Cá, cá ơi, đừng cười anh nhé, đừng kể cho những cô gái trong làng, chuyện bọn anh sợ đia, khi các cô ngồi bên bờ này nhắc đến các anh... > Tác dụng: e Khiến cho hình ảnh trở nên sống động, có hồn, tăng tính sinh động, đầy trìu mến, thân thương. Câu văn, đoạn văn chứa đựng tình cảm tha thiết, dễ đi vào lòng người. « Thể hiện góc nhìn đầy lãng mạn, bay bổng của chàng thanh niên nơi mảnh đất Hà Thành. + Khắc hoạ xúc cảm bồi hồi, xao xuyến của người lính vào đêm trước ngày lên đường nhập ngũ. Câu 4: Xác định cảm hứng chủ đạo của văn bản. Văn bản tập trung thể hiện niềm vui sướng, cảm động của người thanh niên khi được nhập ngũ, lên đường ra trận. Trên mỗi cuộc hành quân, người thanh niên ấy lại càng cháy bỏng khát vọng vào Nam chiến đấu và chiến thắng. Cảm hứng chủ đạo của văn bản: Ngợi ca những tình cảm trong sáng, cao đẹp, ý chí 307 ======= PAGE 309 ======= vượt qua mọi gian khổ, thử thách và niềm hăm hở ra trận chiến đấu vì Tổ quốc, vì nhân dân của thế hệ trẻ Việt Nam đương thời. Câu 5: Em có nhận xét gì về cái “tôi” của tác giả nhật kí qua văn bản? Cái “tôi” của tác giả là con người cá nhân, là dấu ấn cá tính của nhà văn toát lên từ văn bản, thông qua các yếu tố: ngôn ngữ, giọng điệu, điểm nhìn, tình cảm,... Cái “tôi” của tác gia nhật kí qua văn bản trên: ® Cái “tôi” giàu cảm xúc, chan chứa yêu thương với xóm làng, quê hương, đất nước. e_ Cái “tôi” công dân luôn có ý thức, trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc. © Cái “tôi” lí tưởng sống cao đẹp, sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Câu 6: Chỉ tiết nào trong văn bản để lại ấn tượng đặc biệt đối với em? Vì sao? Học sinh tự trả lời theo cảm nhận cá nhân. Câu 7: Thông qua đoạn trích trên, em có cảm nhận như thế nào về tỉnh thần của thế hệ trẻ Việt Nam đối với đất nước trong thời kì kháng chiến? Em học hỏi được điều gì cho cuộc sống và sự chọn lựa của bản thân ngày hôm nay? Tinh thần thế hệ trẻ Việt Nam đối với đất nước trong thời kì kháng chiến: © Tình yêu đất nước nồng nàn khi sẵn sàng rời xa gia đình, người thân để lên đường nhập ngũ, nghe theo tiếng gọi của tổ quốc. « Thế giới tâm hồn lãng mạn, bay bổng, cất giấu trong trái tim một tình yêu lứa đôi riêng tư, mà vô cùng mãnh liệt. » _ Bài học em rút ra cho cuộc sống và sự lựa chọn của bản thân ngày hôm nay: «. Gắn đời sống cá nhân vào nhịp sống chung của đất nước để tìm ra con đường phát triển đúng đắn, tích cực. » Không ngần ngại gian khó, thử thách để hiện thực hóa những mục tiêu, ước mơ của bản thân. ======= PAGE 310 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? VĂN BẢN2 TÔI KEO XE Tìm Lang Câu 1: Những dấu hiệu nào giúp em nhận biết văn bản trên thuộc thể loại phóng sự? Văn bản viết về sự việc có thật: câu chuyện của người kéo xe ở Hà Nội trong xã hội thuộc địa. Các sự kiện được miêu tả, trần thuật chỉ tiết, tập trung vào cảnh đời lao động cơ cực của con người. Sử dụng phong phú chỉ tiết hiện thực: Trong phóng sự có những cái tên của những người thật, việc thật; những địa danh, địa điểm cụ thể. Có thể kể tới những địa danh như Bờ Hồ, phố Hàm Long, hồ Trúc Bạch, đường Cổ Ngư, Thái Bình. Kết hợp với chỉ tiết hiện thực là thái độ, đánh giá của người viết, chẳng hạn khi nói về sự lừa lọc, những mánh khóe của con người thành phố: Cái đời, người ta phải lừa lọc nhau, xử làn lệ uới nhau mới sống được, thì sự mình ăn hiền, ở lành, thật thà như đếm, nó chỉ là cái trò cười của một thằng nhà quê neu ngốc trước đâm đông những kẻ thị thành. > Sự kết hợp giữa những chỉ tiết hiện thực và trải nghiệm thực tế, thái độ của người viết làm tăng tính xác thực của sự việc được miêu tả. Câu 2: Liệt kê các sự việc chính theo trình tự được thuật lại trong văn bản. Các sự việc chính theo trình tự được thuật lại trong văn bản: s Nhân vật “tôi” kể lại những câu chuyện trớ trêu mà người phu xe phải đối mặt khi là nghề s _ Nhân vật “tôi” nhớ lại kỉ niệm ba năm trước khi đi xe kéo, hồi chưa nếm trải để thấu hiểu nỗi khổ cực của người lao động se _ Nhân vật “tôi” kể lại câu chuyện cách đây bốn năm bị một vị khách sang trọng lừa tiền trốn thoát » Nhân vật “tôi” bị thẳng cai Ð. đánh túi bụi, lột quần áo và cướp đi hai hào cuối cùng của anh phu xe © _ Nhân vật “tôi” uất ức vì bị vu oan, liền quay lại đánh trả thằng cai Ð, s Nhân vật “tôi” kể lại những trận đòi đau đớn mà anh phải gánh chịu ở hội chợ. + Những sự lừa lọc, gian dối của cuộc đời đã đẩy anh phu xe vào bước đường cùng, trở thành một người tha hoá, đần biến chất. Câu 3: Nhận xét về tác dụng của việc sử dụng ngôi kế thứ nhất trong bài phóng sự. Tác dụng của việc sử dụng ngôi kể thứ nhất trong bài phóng sự: “Tôi” trong vai người kể chuyện đã đem lại cho tác phẩm một góc nhìn của người chứng kiến, giúp cho sự trình 309 ======= PAGE 311 ======= bày, đánh giá của con người, đời sống trong tác phẩm vừa đáng tin cậy, vừa phong phú, đa đạng. Câu 4: Chỉ ra và phân tích yếu tố tạo nên giọng điệu của bài phóng sự. Giọng điệu của phóng sự: Châm biếm, mỉa mai với thói đời xấu xa trong xã hội xưa nhưng vẫn pha chút thương cảm, xót xa cho những thân phận lao động đáng thương. Ngôi kể thứ nhất là yếu tố quan trọng tạo nên giọng điệu của bài phóng sự: giúp tác giả thể hiện trực tiếp cảm xúc, quan điểm cá nhân. Câu 5: Chỉ tiết nào trong văn bản để lại ấn tượng đặc biệt đối với em? Vì sao? Học sinh lựa chọn chỉ tiết theo ấn tượng cá nhân. Cần có sự lí giải thuyết phục: tại sao lại lựa chọn chỉ tiết đó? Sự tác động của chỉ tiết đối với bản thân như thế nào? Câu 6: Bài học sâu sắc đặt ra trong văn bản là gì? Điều đó theo em có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống ngày hôm nay? Học sinh lựa chọn bài học theo quan điểm cá nhân. Cần có sự lí giải thuyết phục: tại sao lại lựa chọn bài học đó? Sự tác động của bài học đối với bản thân như thế nào? ® Bài học về giá trị của đồng tiền © Bài học về việc giữ gìn bản chất lương thiện giữa thói đời xấu xa e Bài học về việc trân trọng công sức của những người lao động. Câu 7 (Bài tập sáng tạo): Vẽ một bức tranh về người phu xe đang chở khách giữa đô thị Hà Nội thời Pháp thuộc hoặc viết một đoạn văn (độ dài 200 chữ) thể hiện suy nghñ của em về sự vất vả, tủi nhục của người phu xe. Có thể lựa chọn vẽ tranh hoặc viết đoạn văn, tuỳ theo sở trường của bản thân. Sản phẩm cần đạt được những nội dung sau: ® Tái hiện được không gian thành thị vào những ngày trước Cách mạng tháng Tám. © Thểhiện được sự khắc khổ của người phu xe trên khuôn mặt, dáng hình lao động. © Thể hiện được sự khinh bị, đối đãi bạc nhược của những vị khách sang trọng trên chiếc xe kéo. C. TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH LUYỆN TẬP GIẢI THÍCH NGHĨA CỦA TỪ Bài 1: Cụm từ “giăng tơ” trong những ngữ cảnh sau mang nghĩa gì? Hãy giải thích nghĩa của từ “giăng tơ” theo những cách khác nhau mà em biết. a. Lòng thấu giăng tơ một mỗi tình ======= PAGE 312 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Em ngừng thoi lại giữa tau xinh Hình nhự hai má em bừng đỏ Có lẽ là em nghĩ đến anh. (Mưa xuân - Nguyễn Bính) “Giăng tơ” là hành động một trong hai người trong mối quan hệ tỏ ra quan tâm, thể hiện tỉnh cảm, hay bày tỏ những dấu hiệu rõ ràng để thu hút và chiếm được sự quan tâm của đối phương. b. Đêm qua ra đứng bờ ao, Trông cá, cá lặn, trông sa0, sao mỜ. Buần trông con nhện giăng tơ, Nhiện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai? (Ca dao) “Giăng tơ” là hoạt động mang tính bản năng của loài nhện, nhằm mục đích bắt mồi lúc chập tối. c.— Hà Nội còn là rộng quá Các đường như nhện giăng tơ Nào những phố nàu phố kia Gặp mẹ làm sao gặp hểH (Lời ru trên mặt đất, Xuân Quỳnh) “Giăng tơ” trong ngữ cảnh này là sự hỗn độn, phức tạp và không rõ ràng. Bài 2: Xác định cách giải thích nghĩa của từ được dùng trong những trường hợp sau: a. Châu thổ đồng bằng ở vùng cửa sông do phù sa bồi đắp nên. + Giải thích bằng cách nêu khái niệm mà từ biểu thị b. Mô tê: (từ ngữ địa phương miền Trung) đâu đó. + Giải thích bằng từ đồng nghĩa c. Chủ nghĩa cực đoan: những tư tưởng, niềm tin thái quá, thiên lệch đến cực độ, có thể dẫn đến việc sử dụng bạo lực và các hành vi vượt quá chuẩn mực đạo đức xã hội để bảo Vệ tư tưởng, niềm tin cực đoan ấy. + Giải thích bằng cách nêu khái niệm mà từ biểu thị d. Phát phụ (phát: tóc; phụ: da): hai thứ tượng trưng cho cơ thể con người. 31 ======= PAGE 313 ======= + Giải thích bằng cách giải nghĩa các thành tố tạo nên từ đó e. Chim tăng ló: tên gọi theo tiếng kêu của một loài chỉm đẹp, lông màu xanh, thường, hót vào mùa hạ, tiếng hót cao và buồn. - Giải thích bằng cách nêu khái niệm mà từ biểu thị Bài 3: Điền các từ sự bất định, chồn, chim xanh vào chỗ trống tương ứng với phần giải thích nghĩa phù hợp: a. bất định: trạng thái không ổn định, chắc chắn. b. chồn: (nghĩa đen) mỏi mệt đến mức không cử động được. c. chỉm xanh: để chỉ người đưa tin, người làm mối. Bài 4: Giải thích nghĩa của các từ sau và xác định cách giải thích nghĩa đã dùng: a. nguyên liệu là vật liệu tự nhiên (vật liệu thô) chưa qua xử lí và cần được chuyển hóa để tạo sản phẩm. + Giải thích bằng cách nêu khái niệm mà từ biểu thị Đặt câu: Việc chọn nguyên liệu chất lượng là bước quan trọng để đảm bảo món ăn ngon miệng. b. cảm hứng là trạng thái tâm lý đặc biệt khi có cảm xúc và sự lôi cuốn mãnh liệt, tạo điều kiện để óc tưởng tượng, sáng tạo hoạt động có hiệu quả. + Giải thích bằng cách nêu khái niệm mà từ biểu thị Đặt câu: Cảm hứng thế sự là một trong những nguồn cảm hứng chủ đạo, có mặt ở tất cả các giai đoạn của văn học trung đại Việt Nam. c. kí ức là hình ảnh, sự việc đã qua, được trí nhớ phi lại và gợi lên. + Giải thích bằng cách nêu khái niệm mà từ biểu thị Đặt câu: Kí ức về những ngày hè êm đềm trên bãi biển vẫn in đậm trong tâm trí tôi. d. cố hương: “cố” - cũ, “hương” - quê, “cố hương” là quê hương cũ. + Giải thích bằng cách giải nghĩa các thành tố tạo nên từ đó Đặt câu: Người lính trở về cố hương sau nhiều năm xa cách. r/ D. VIẾT VIẾT BÀI VĂN SO SÁNH, ĐÁNH GIÁ HAI TÁC PHẨM VĂN XUÔI II. Đọc ngữ liệu tham khảo và trả lời câu hỏi 312 ======= PAGE 314 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? Câu 1: Cụm từ nào trong nhan đề và các đoạn mở bài, kết bài cho thấy đề tài của bài viết đã được xác định rõ ràng, cụ thể? © Nhan đề: tương đồng, khác biệt e _ Mở bài: Tương đồng và khác biệt trong lối viết của hai tác giả © Kết bài: Hai tác phẩm cũng thể hiện ... mặc dù... Câu 2: Ở bài làm tham khảo trên, người viết có bao nhiêu luận điểm để phân tích sự khác biệt giữa hai tác phẩm? Người viết có hai luận điểm: 1. Tương đồng: ® Thể loại ® Đêtài 2. Khác biệt: © Cách quan sát và mô tả đối tượng © Cách thể hiện kiến thức cuộc sống © Sử dụng ngôn từ s® Tâm trạng người viết Câu 3: Nhận xét về cách sử dụng lí lẽ và bằng chứng của tác giả bài viết khi so sánh, đánh giá hai tác phẩm. Khi đưa ra quan điểm, người viết luôn kèm theo lý lẽ và bằng chứng trong văn bản Ví dụ: Khi đánh giá sự khác biệt trong cách quan sát, mô tả dòng sông: Nguyễn Tuân tập trung vào vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của sông Đà: “hung bạo và dữ đội”... Hoàng Phủ Ngọc Tường quan sát sự dòng sông Hương trong góc nhìn của một người cơn gái đẹp trên hành trình đi tìm kiếm tình yêu đích thực của cuộc đời mình. II. Thực hành viết Viết đoạn văn khoảng 600 chữ nêu cảm nhận của anh/chị về hành động Mị chạy theo A Phủ và hành động thị theo Tràng về làm vợ, từ đó nhận xét tấm lòng nhân đạo của các nhà văn. 313 ======= PAGE 315 ======= a. Xác định đúng kiểu bài e Học sinh viết đúng cấu trúc đoạn văn: e Viết đúng dung lượng yêu cầu: 600 chữ (+/- 10%) se Kiểu bài: Nghị luận văn học b. Xác định đúng trọng tâm Nêu cảm nhận về hành động Mị chạy theo A Phủ và hành động thị theo Tràng về làm vợ, từ đó nhận xét tấm lòng nhân đạo của các nhà văn. c. Triển khai vấn đề nghị luận Học sinh lựa chọn hệ thống luận điểm phù hợp để thực hiện, có thể theo hướng như Sau: LĐI: Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ. «Mi có một khoảng lặng để đấu tranh tâm lý và đưa ra sự lựa chọn s Mị quyết định chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi bởi ánh sáng trong tim đã đủ mạnh mẽ. s Tô Hoài để cho Mị chủ động lựa chọn và quyết định thay vì để A Phủ là người kéo Mị đi hoặc ngỏ lời rủ Mị đi cùng. LĐ2: Phân tích hành động thị theo không Tràng về làm vợ se Thái độ và hành động của thị trước miếng ăn. s Hai con mắt trũng hoáy sáng lên khi nghe lời mời của Tràng, khi cảm giác sắp được ăn, lập tức thay đổi thái độ từ cong cớn sang đon đả. s Hành động thiếu duyên dáng của thị khi ăn. s Chỉ tiết bốn bát bánh đúc. s Sau khi ăn xong, thị chủ động hỏi dò “Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố!” “ƯA Ân? ® Lời “cầu hôn” của anh cu Tràng: “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.” + Khi thị cũng theo về thật, Tràng mới đầu cũng chợn (sợ). *Thị nhận lời theo Tràng về nhà chỉ với bốn bát bánh đúc. 314 ======= PAGE 316 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rở bao nhiêu? LĐ3: Đánh giá sự tương đồng - khác biệt về nội dung + nghệ thuật: 1. Điểm tương đồng: Nội dung: e Mị và thị: o Đều là nạn nhân của những hoàn cảnh ngặt nghèo o Đầu là những người con gái chủ động tạo nên cơ hội cho chính bản thân mình, chủ động tìm cách để giải thoát mình khỏi khó khăn, bế tắc thay vì chỉ chờ đợi từ người khác o Họ đều m được một người bạn đồng hành s Thể hiện ngòi bút nhân đạo sâu sắc của hai người cầm bút: Cả Tô Hoài và Kim Lân đều bộc lộ tấm lòng với thân phận con người: o Ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp của con người o Đồng cảm với số phận bất hạnh o Phê phán, tố cáo hiện thực xã hội o Đồng tình với khát vọng giải phóng Nghệ thuật ® Ngôi kể thứ 3 với góc nhìn khách quan của người kể chuyện đem tới sự toàn diện, tuy nhiên, các tác giả vẫn đan xen những câu văn miêu tả tâm lý nhân vật tính tế, sâu sắc e Xây dựng diễn biến tâm lý nhân vật tỉnh tế qua cử chỉ, hành động, lời nói e Xây dựng nên những chỉ tiết nghệ thuật đắt giá 2. Điểm khác biệt: Nội dung: se Nhà văn Tô Hoài khắc họa Mị với cuộc hành trình tìm lại chính bản thân mình, từ một bông hoa ban của núi rừng Tây Bắc - đến những khoảnh khắc đánh mất giá trị bản thân — để rồi cuối cùng tự giải thoát mình bằng chính lòng trắc ẩn và tình yêu thương con người. ® Còn cây bút đồng quê Kim Lân lại tạo nên chân dung cô thị vô danh, cô đơn giữa cuộc đời rộng lớn và cảnh đời tăm tối. Cái đói khiến ngoại hình cô xấu xí, khiến cô từ bỏ cả sĩ diện, gồng mình lên để sinh tồn giữa thời cuộc. 315 ======= PAGE 317 ======= Việc nhân vật không có tên cũng như một cách nhà văn “điển hình hóa” nhân vật, để thị không chỉ kể câu chuyện của cuộc đời mình - mà còn nói lên nỗi lòng của biết bao người phụ nữ khác. Nghệ thuật Mỗi nhà văn lại tạo nên dấu ấn riêng trong lòng bạn đọc: ø VCAP: Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, đời thường - khắc họa cuộc sống của người dân ở miền núi thời phong kiến s VN: Ngôn từ dung dị, mang hơi thở của làng quê Bắc Bộ -đặt trong bối cảnh nạn đói năm 1945 d. Viết bài văn đảm bảo yêu cầu sau ® Trình bày vấn đề một cách rõ ràng, thuyết phục, có sử dụng đan xen phân tích, đánh giá và cảm nhận, có dẫn chứng kèm theo. s Sử dụng lý lẽ, dẫn chứng xác đáng, thuyết phục; sắp xếp các ý một cách logic, hợp lý, Tõ ràng, đảm bảo tính mạch lạc. đ. Chính tả, ngữ pháp Học sinh cần đảm bảo chính tả, ngữ pháp, liên kết câu, đoạn. e. Sáng tạo Học sinh có những ý tưởng sâu sắc, có cách diễn đạt phong phú, sinh động, mới mẻ. 316 ======= PAGE 318 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? E. LUYỆN TẬP 1L. Đọc văn bản và trả lời câu hỏi MỘT LÍT NƯỚC MẮT Kito Aua Câu 1: Tính phi hư cấu của văn bản trên được thể hiện ở những yếu tố nào? Tỉnh phi hư cấu được thể hiện ở những sự kiện có thực (về thời gian, địa điểm, ...) mà người viết đã trực tiếp tham gia và chứng kiến. Trong đoạn trích Một lít nước mắt, yếu tố phi hư cấu được thể hiện: Một lít nước mắt là nhật kí của Kito Aya, một nữ sinh người Nhật Bản mắc bệnh nan y. Là những dòng nhật kí bộc bạch về tâm trạng của A-ya trong quá trình điều trị bệnh ở bệnh viện. Căn bệnh bại não làm cô mất đần Hếng nói, khả năng tự điều khiển cơ thể nhưng dường như không thể làm mất đi sự lạc quan, nâng nỉu cuộc sống của cô > Dựa trên những sự kiện có thật mà chính người viết đã tham gia Thể hiện từng cung bậc cảm xúc đau khổ, tuyệt vọng tới lạc quan, hy vọng với cuộc sống của nhân vật Aya trong nhật kí qua lời độc thoại với chính bản thân mình hay lời đối thoại với mẹ... Câu 2: Phân tích tác dụng của việc sử dụng kết hợp thủ pháp miêu tả với trần thuật trong đoạn trích “19 tuổi: Có lẽ không còn được lâu nữa”. Trong đoạn trích “19 tuổi: Có lẽ không còn được lâu nữa”, Aya kể lại tâm trạng, cảm xúc của mình khi cô gặp những khó khăn trong sinh hoạt cá nhân: đi lại, ăn uống, vệ sinh. Đây là trích đoạn vô cùng xúc động được xây dựng bằng việc kết hợp thủ pháp miêu tả với trần thuật: Thủ pháp trần thuật: Aya tự kể lại về những câu chuyện đời sống hàng ngày như việc cô bị đem ra làm hậu quả để một người mẹ dạy đứa trẻ, cô cố gắng kìm nén những giọt nước mắt của sự đau khổ và tuyệt vọng ra sao,... Dưới ngôi kể thứ nhất, do A-ya kể lại đã khiến độc giả càng cảm nhận sâu sắc những cảm xúc cũng như nghị lực sống đầy mạnh mẽ của cô. Thủ pháp miêu tả: ® “Một cô khoảng ba chục tuổi mặc đồ bệnh nhân đã nói thế với con trai khi thấy mình loạng choạng bấu lấy mẹ vì suýt bị té trong nhà vệ sinh bệnh viện” ©_ “Khi mình khóc, người xung quanh sẽ thấy nặng nề. Khi mình khóc, mũi mình bị nghẹt, đầu đau như búa bổ và người mệt lử” 31? ======= PAGE 319 ======= -> Việc sử dụng biện pháp miêu tả càng khắc họa đậm nét tâm trạng đau khổ, tuyệt vọng của Aya khi mắc căn bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên, Aya vẫn chưa bao giờ từ bỏ, cô vẫn luôn lạc quan với nghị lực sống mạnh mẽ. Câu 3: Chỉ tiết nào trong đoạn trích Một lít nước mắt để lại ấn tượng đặc biệt đối với em? Vì sao? Học sinh lựa chọn chỉ tiết theo ấn tượng cá nhân. Cần có sự lí giải thuyết phục: tại sao lại lựa chọn chủ tiết đó? Sự tác động của chủ tiết đối với bản thân như thế nào? Câu 4: Thái độ của Aya khi đối mặt với căn bệnh nan y gợi cho em suy nghĩ gì? Điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống của em? Học sinh bày tỏ suy nghĩ của bản thân trước thái độ, tỉnh thần vượt lên nghịch cảnh của Aya, từ đó nêu ra ý nghĩa đối với cuộc sống của bản thân. (Em học hỏi được điều gì từ nghị lực phi thường ấy của một cô gái trẻ mắc bệnh hiểm nghèo?) Câu 5: Em học hỏi được điều gì từ tác giả nhật kí? © Bài học về ý chí chiến đấu đến cùng, không bao giờ bỏ cuộc. © Bài học về giá trị của tình yêu thương gia đình e_ Bài học về việc trân trọng cuộc sống, nâng niu cơ thể của bản thân. II Luyện tập viết Trong nhật kí “Mãi mãi tuổi hai mươi”, Nguyễn Văn Thạc tự đặt ra cho mình câu hỏi: “Mình bắt đầu sống có trách nhiệm từ đâu, từ lúc nào?”. Em hãy đưa ra câu trả lời của bản thân bằng một bài văn khoảng 600 chữ. a. Xác định yêu cầu kiểu bài e _ Cần đảm bảo bố cục đủ ba phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài e _ Viết đúng dung lượng yêu cầu: 600 chữ (+/- 10%) e© - Kiểu bài: Viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội b. Xác định đúng trọng tâm Trả lời câu hỏi: “Mình bắt đầu sống có trách nhiệm từ đâu, từ lúc nào?” c. Triển khai vấn đề nghị luận Học sinh triển khai thành các ý phù hợp để làm sáng tỏ vấn đề, có thể theo hướng như sau: ======= PAGE 320 ======= Tập 01 - Ngoài kia rực rỡ bao nhiêu? s Giải thích: o “sống có trách nhiệm”: việc mỗi cá nhân phải biết hoàn thành những công việc, nghĩa vụ mà mình được giao, sẵn sàng hoà nhịp vào bối cảnh của thời đại. o “từ đâu”: nhấn mạnh vào cội nguồn o “từ lúc nào”: nhấn mạnh vào thời gian + Câu hỏi là chìa khoá để đi tìm kiếm câu trả lời rằng chúng ta bắt đầu có ý thức với cuộc đời của bản thân và vận mệnh của đất nước từ đâu, từ bao giờ? ® Bàn luận: o Đưa ra câu trả lời của bản thân cho câu hỏi được đặt ra ở đề bài o Lý giải vì sao bản thân lại có sự lựa chọn như vậy (cần đưa ra từ 2 - 3 lý lẽ để bài viết có chiều sâu) o Đưa ra dẫn chứng đời sống thực tế (nên chọn đẫn chứng cụ thể, tiêu biểu, minh chứng cho cách sống có trách nhiệm của một người trẻ thì sẽ phù hợp với vấn đề nghị luận hơn) e Bài học nhận thức và hành động Ví dụ: Đọc tham khảo 1 đoạn người viết đưa ra câu trả lời của bản thân Tôi nhận thức được trách nhiệm của bản thân với cuộc đời mình kể từ khi bố tôi về hưu. Dấu hiệu của tuổi già ngày càng rõ rệt với bố, cả những biểu hiện thất thường của cơn khủng hoảng tuổi trung niên, khiến tôi chợt nhận ra mình không thể nào rong chơi được nữa vì biết đâu bố mẹ chẳng thể đợi đến lúc mình đủ thành công. Tôi hiểu rằng đã đến lúc mình phải trở thành chỗ dựa của bố mẹ, vì thế tôi đã nỗ lực học tập, chăm chỉ rèn luyện, trau đồi bản thân hơn bao giờ hết. Tôi cũng bày tỏ tình cảm với bố mẹ nhiều hơn qua những hành động nhỏ. Thay vì những buổi đi chơi “thả ga” với bạn bè, tôi nâng niu trân trọng từng bữa cơm cùng những người yêu thương mình nhất. (...) đ. Viết bài văn đảm bảo yêu cầu sau s _ Trình bày vấn đề một cách rõ ràng, thuyết phục, có sử dụng dẫn chứng mỉnh hoạ phù hợp Sử dụng lý lẽ, dẫn chứng xác đáng, thuyết phục; sắp xếp các ý một cách logic, hợp lý, rõ ràng, đảm bảo tính mạch lạc 319 ======= PAGE 321 ======= đ. Chính tả, ngữ pháp Học sinh cần đảm bảo chính tả, ngữ pháp, liên kết câu, đoạn. e. Sáng tạo Học sinh có những ý tưởng sâu sắc, có cách diễn đạt phong phú, sinh động, mới mẻ 320 ======= PAGE 322 ======= Thế giói trong mắt bạn có điều gì rực rõ...2 ======= PAGE 323 ======= Có lúc nào thế giới ấy khiến bạn tốn thương? H ———x== ======= PAGE 324 ======= ~-~ Thế gian rộng lón đã chữa lành bạn như thế nào? TÀI LIỆ HHÓI HỌC HAY MIỄN PHÍ ———ƑẼỄỄễ—————————————ễễễễ ———————————————————— ---————————ỄĂễ ————————————————————— m———““——==Ƒ—Ƒ——P=ƑE—————————— ————————Ễ————————————-—-—— —- ——--—-—=—-—=— “5. ÔÔÔoo Dnnnsga.a..aeasa.asaeaa...asaaaaaeneanaaawaanaaun ———— —————>>—srm ——Ằễ——ề————_ BH, nhưng gmnna=ememmnieenrmnen —_— ———— —_—ễFễ